HIỆN THÂN CỦA CHÚA
- Hương
ơi! ra đây ba mẹ gọi.
Diễm Hương bước ra ngồi vào ghế salon:
- Thưa
ba mẹ gọi con có chuyện gì?
Ông ăn ngồi yên lặng, bà Văn bảo:
- Hôm
nay ba mẹ muốn nói thẳng với con chuyện của Vũ. Công nhận rằng Vũ có ơn cứu
con, nhưng không thể vì đó mà Vũ đòi hỏi quá nhiều được. Có thể Vũ có những ưu
điểm hợp với con nhưng việc hôn nhân của con còn là việc chung của gia đình, danh
dự của gia đình. Con không thể lấy một người chồng kém bằng cấp hơn mình, cũng
không thể bỏ ngôi biệt thự này để về ở trong lán trại của công nhân vì ba mẹ
không chịu bắt rễ bởi con còn em gái. Hơn nữa ba mẹ không chịu cho con lấy
chồng xa. Ba điều kiện ba mẹ đặt cho người chồng của con là: Bằng cấp tương
đương hoặc hơn con, là người ở tại Đà Lạt này, và có một ngôi nhà tương xứng
như ngôi nhà này để rước con về. Thiếu một trong ba điều kiện, con đừng xin xỏ
gì ba mẹ nữa.
Bà Văn đặt những điều kiện chỉ Khánh mới có mà
Vũ không hề có. Diễm Hương buồn bã cúi mặt đăm chiêu. Bà Văn tiếp:
- Chủ
nhật này ba mẹ có nhờ Khánh đưa con đi về Lâm Đồng thăm chú Vỹ và xem công việc
như thế nào. Con chuẩn bị.
Z
Ông Trường cằn nhằn:
- Cái
thằng Hải bây giờ bày đặt kết bạn kết bè với ai đâu rồi sinh tật uống rượu say
sưa, không để tiền gửi về nuôi vợ con. Vũ lại đi chơi nữa à!
Vũ thưa:
- Dạ
thưa bác, bác xem nhà giùm, con đi thăm bạn con ở Đà Lạt, chiều con về.
- Chừng
nào làm đám cưới cho tôi biết nhé!
Vũ bẽn lẽn cười, đánh xe môtô đi.
Chủ nhật này ngôi nhà vắng vẻ lạ thường, chỉ
có Diễm Châu, Duy và Dương, còn ông bà Văn và Diễm Hương đã được Khánh lái xe
đưa về Lâm Đồng từ thật sớm. Vũ ở lại tập võ rồi đánh đàn cho chúng nghe. Buổi
trưa khi Duy và Dương đi nghỉ rồi, Diễm Châu gọi Vũ:
- Anh
Vũ ơi, lại đây em nói cái này cho nghe.
Vũ lại salon ngồi cạnh Diễm Châu. Diễm Châu
thuật lại cho Vũ nghe chuyện bà Văn nói với Hương và dặn:
- Anh
đừng nói là em tiết lộ với anh nhé. Tụi em thương anh và muốn được gần gũi anh
mãi. Tụi em ghét anh Khánh giàu mà hách lắm, khinh người nghèo ra mặt.
Vũ ngồi im nghe lòng mình đau nhói. Chàng có
cảm giác mùa xuân tình yêu đang ngập tràn hoa lá muôn màu, với đàn bướm tung
tăng, với cỏ xanh trải đất, với nắng hồng ấm áp, bỗng giông bão từ đâu thổi đến
làm tan vỡ tất cả. Đất trời trở nên âm u, hoa rụng cánh tơi tả, mưa gió gào
thét dữ dội và trái tim chàng rướm máu vì một vết chém hư vô.
Chàng có thể xin đi học đại học chuyên tu để
có bằng cấp đại học và nhờ ông Trường để ở lại làm tại Đà Lạt vì các công ty
xây lắp ở đây đều nể phục phong cách làm việc của chàng và muốn chàng hợp tác
với họ. Nhưng đào đâu ra tiền để sắm một ngôi biệt thự tráng lệ nguy nga! Chàng
cũng cảm thấy tự ái khi bị khinh rẻ và thoáng có ý nghĩ vĩnh biệt ngôi nhà này,
trả lại mọi niềm vui cho dĩ vãng. Nhưng chàng biết Diễm Hương sẽ đau khổ khi
mất chàng và chính chàng cũng không chịu đựng nỗi sự xa cách với Hương. Cả một
thế gian đầy người này nhưng tìm được một người đồng điệu tâm hồn với chàng rất
khó, thế mà Diễm Hương của chàng hội đủ những đức tính khiến chàng nể phục.
Nàng hồn nhiên như bé thơ, khôn ngoan như người lớn, tế nhị như người vợ, rộng
lượng như người mẹ, hiền lành như Masoeur và sắc bén như nhà triết học. Chỉ có
Diễm Hương mới đáp ứng nổi những khát khao của tâm hồn chàng. Diễm Hương như
dòng suối mát để chàng quên đi sa mạc cuộc đời khô khan cháy bổng. Diễm Hương
như lò sưởi ấm để chàng quên đi mùa đông cuộc đời giá băng lạnh lẻo. Diễm Hương
như cây to rợp bóng mát để chàng nghỉ ngơi giữa buổi trưa cuộc đời gay gắt chói
chang.
Hình dáng Diễm Hương khắc sâu trong trái tim
chàng mà dường như không một quyền lực nào xóa nhòa được nữa. Ánh mắt to tròn,
đen láy như hai viên ngọc huyền chứa đựng cả một cõi tâm hồn cao cả. Đôi mày tự
nhiên cong như hai lá liễu. Chiếc mũi thon cao nổi bật giữa hai đôi má trái
đào. Nụ cười như hé mở cả mùa xuân. Mái tóc xõa trên vai như làn mây giữa trời
mùa hạ. ...
“Anh sẽ cầm lấy đôi bàn tay
Tóc em anh sẽ gọi là mây...”
Vũ nhớ một bài thơ của thi sĩ Ả Rập ca ngợi
người yêu:
“Khi nàng gỡ tấm voan
Cả vầng trăng xuất hiện
Khi nàng hé môi son
Những ánh châu kiều diễm
Vũ trụ tuy mênh mông
Nhưng chứa nàng không trọn
Thế sao hình dáng nàng
Vừa đủ trái tim tôi”
Vũ thở dài, Diễm Châu tiếp:
- Chị
Hương có dặn em giữ anh lại đợi chỉ về. Chỉ sẽ cố gắng thu xếp công việc để về
sớm.
- Công
việc ở B’Lao có quan trọng đối với chị Hương không?
- Chỉ
toàn quyền đấy anh ạ! ba mẹ chỉ là phụ thôi. Chị phải thường xuyên tới lui sắp
xếp và tính toán sổ sách mọi thứ. Chị giỏi dắn đảm đang lắm. Ba mẹ tin tưởng
chị lắm. Biết bao nhiêu người theo đuổi chị mà chị không chấp nhận, cũng không
hất hủi. Chị nhận xét anh có tâm hồn hơn mọi người nên chị chấp nhận mặc dù anh
không có bằng cấp và địa vị như họ. Tụi em cũng đồng quan điểm như chị. Ba mẹ
còn ảnh hưởng bởi quan niệm môn đăng hộ đối thời xưa. Chị không muốn tranh cãi
làm buồn ba mẹ, nhưng đừng hòng ba mẹ ép chị lấy một người nào khác nếu không
phải là anh. Chị cương nghị lắm, quyết định rồi không ai lay chuyển nổi đâu.
Ngồi yên một lát, Diễm Châu đứng dậy đi pha ly
nước chanh cho Vũ và bảo Vũ đánh piano cho cô bé nghe. Vũ đánh bài Tristess của
Chopin.
Diễm Châu có vẻ thông cảm nỗi buồn của chàng.
Khi Duy và Dương ngủ no mắt thì xe của Khánh
về tới. Khánh cho xe về mà không vào nhà. Ông bà Văn chào Vũ lấy lệ rồi đi vào
trong. Diễm Hương nhìn Vũ và biết Diễm Châu đã nói những gì. Nàng nói:
- Anh
đợi em một chút.
Nàng thay quần áo xong trở ra rủ chàng đi dạo
quanh hồ. Hồ Xuân Hương có con đường nhựa chạy quanh bờ dài gần sáu cây số.
- Anh
đừng buồn (Diễm Hương nói). Người ta không thể hiểu nhau nhiều nếu không có
nghịch cảnh. Và tình yêu cũng cần khó khăn để tăng thêm giá trị cho nó.
Khi mỏi chân, họ ngồi xuống cạnh nhau trên bãi
cỏ.
- Khánh
chắc vui lắm, em nhỉ? Vũ hỏi:
- Khỏi
nói, anh ạ. Anh ta thấy mình được ba mẹ yểm trợ nên cho mình đã nắm chắc phần
thắng trong tay. Niềm kiêu hãnh xuất hiện rõ rệt.
- Khánh
có biết chuyện của em và anh không?
- Cả
Đà lạt nầy biết, đâu riêng gì Khánh. Có lẽ họ cũng xầm xì nên ba mẹ dao động,
cộng với Khánh nịnh hót cũng giỏi.
Mặc dù trấn an Vũ, nhưng chính Diễm Hương cũng
buồn vì nàng chưa tìm cách giải quyết được vấn đề. Anh mắt hồn nhiên bỗng hôm
nay xuất hiện những làn khói. Họ ngồi yên lặng bên nhau cho tới khi ánh nắng
khuất dần ở bên kia thành phố. Vũ kéo tay Hương đứng dậy.
- Anh
hẹn ông Trường chiều nay về. Vũ nói.
- Tuần
sau anh đến đưa em đi thăm cha Độ, lâu quá em chưa thăm cha. Bỗng nhiên em nhớ
cha.
- Ừ,
anh sẽ đến.
Suốt tuần lễ Vũ buồn bã ít nói. Tình yêu đã
cho chàng bao nhiêu là êm đềm ngon ngọt mà chàng ngỡ là hạnh phúc chân thật,
bỗng cuối đường của nó thì cay đắng hiện ra. Hạnh phúc của tình yêu làm Vũ bồi
hồi, xao xuyến, nhớ nhung, khắc khoải và bất an. Nó vừa hấp dẫn vừa ray rứt
khiến người ta bước vào bỗng trở thành kẻ mất hồn khờ dại. Cái hấp dẫn ngọt
ngào của nó khiến người ta không nỡ từ chối nhưng khi họ đón nhận thì “ viên
kim cương từ xa đã biến thành giọt nước mắt”. Họ sống trong tình yêu để nhận
lấy cảm giác êm ái và cũng để chịu đựng những cực hình thiêu đốt. Vũ nhìn thấy
mặt trái của tình yêu và cảm thấy kinh hãi. Nhưng chàng không còn đủ sức mạnh
để khước từ nó khi mà người chàng yêu quá tuyệt vời và cao cả. Chàng đã từ bỏ
gia đình để đi tìm TUYỆT ĐỐI, và rồi chàng đã ngã quỵ dưới chân người con gái
khi mục đích chính chưa đạt được. Tại sao chàng đủ can đảm từ bỏ gia đình với
mọi ấm êm hạnh phúc nhưng không đủ cam đảm từ bỏ tình yêu với một người con
gái. Sức mạnh của tình yêu quả thật lớn lao. Chàng dũng sĩ quật ngã hơn mươi
người để đoạt chức chưởng môn, đánh gục trong phút chốc hai tên côn đồ hung
hãn, nhưng vùng vẩy không nổi sợi dây ái tình siết chặt trong tim.
Vũ thấy rõ cái hèn yếu của mình và băn khoăn
mãi.
Tiếng những người công nhân thì thào sau lưng
Vũ:
- Đó
là triệu chứng lâm sàng của người đang thất tình.
- Người
yêu bỏ đi lấy chồng khác rồi à?
- Rồi
hay chưa thì chẳng rõ, nhưng đại khái đều chung một kiểu đó.
- Anh
Vũ mà ngã bệnh tương tư thì ông chủ nhiệm chết giấc.
Vũ mĩm cười cay đắng.
a
Tuần sau Vũ trở lại đưa Diễm
Hương đi. Ông bà Văn lánh mặt Vũ. Cha Độ trông coi một ngôi giáo đường cất đơn
giản trong một giáo xứ nghèo ở ven vùng Đà Lạt. Những ngôi nhà tại đây đóng
vách bằng ván bìa của cây thông. Đường trong làng chưa được tráng nhựa. Người
dân chuyên làm rẩy trồng đồ légume. Đồ légume thích hợp với khí hậu Đà Lạt,
nhưng chăm sóc rất vất vả. Họ dậy sớm để tưới khi mà những người khác còn cuộn
mình trong chăn.
Ngôi nhà Cha gần bên thánh đuờng cũng đơn sơ
như mọi người, có những chậu kiểng sơ sài. Có lẽ sau buổi lễ cha đang ngồi một
mình trên chiếc ghế mây với ly nước trà bốc khói. Diễm Hương kêu lên với giọng
đầy thân mật.
- Cha!
Nàng chạy ùa tới quỳ dưói chân cha và hôn nhẩn
cha.
- Con
nhớ Cha quá!
Gương mặt Cha Độ đầy đặn hiền lành phúc hậu.
Tóc Cha đã bạc. Chòm râu bạc lòa xòa trước ngực. Cha ngồi đó, bình yên, mà như
mênh mông bát ngát. Cha độ mĩm một nụ cười đôn hậu:
- Con
gái cha mấy tháng nay trốn biệt tích. Chắc có chuyện gì vui nên quên cha, rồi
khi nào buồn mới nhớ cha, phải không?
Diễm Hương bẽn lẽn:
- Cha
biết hết!
Vũ khẽ cúi đầu chào Cha. Cha Độ chỉ chiếc ghế
mời Vũ:
- Ngồi
ghế đi con. Ai vậy Hương?
- Bạn
con đấy Cha, một người đã chối Chúa.
- Đúng,
chỉ những người đã chối Chúa mới có thể dựng lại vinh quang của Chúa hơn ai
hết. Vũ ngồi xuống có vẽ thắc mắc vì câu nói lạ lùng của Cha. Diễm Hương hỏi:
- Sao
kỳ vậy, cha?
- Con
không nhớ thánh Phêrô chối Chúa ba lần rồi trở thành giáo hoàng đệ nhất sao? Vũ
đưa mắt nhìn Diễm Hương có ý gọi nàng ngồi lên ghế, Diễm Hương biết ý nói:
- Em
thích ngồi dưới chân cha.
Cha Độ bảo Vũ:
- Diễm
Hương có trực giác bén nhạy lắm đó con.
- Con
còn thua Cha xa. Diễm Hương tiếp.
Vũ cảm thấy mến phong cách bình dị, hiền lành
và thân ái của Cha Độ. Vũ có cảm giác như đang đứng trưóc một ngọn núi hùng vĩ
mà chàng chỉ là hòn sỏi nhỏ. Chàng cũng có cảm giác như mình là con suối vừa
gặp phải một đại dương. Cha Độ nói một câu bâng quơ:
- Khi
người ta thấy mình nhỏ bé là lúc họ bắt đầu chuyển mình để trở thành vĩ đại. Vũ
hơi ngạc nhiên, không lẽ Cha đọc được ý nghĩ của mình một cách rõ rệt như vậy.
- Gia
đình con vẫn bình thường, hả Hương?
- Dạ,
cám ơn Cha, ba mẹ và các em con vẫn khoẻ.
- Việc
học hành sao rồi?
- Thưa
Cha, con vẫn học đều đặn.
Rồi Diễm Hương kể lại trường hợp nàng đã gặp
Vũ cho Cha nghe. Cha chú ý nghe rồi khen:
- Vũ
giỏi quá, hè.
Vũ lên tiếng:
- Thưa
Cha, giáo dân ở đây có đông không?
- Ít
lắm con! Mấy mươi năm Cha ở đây cũng chừng ấy gia đình có đạo. Chỉ những người
có đạo và con cháu họ nối tiếp chứ không có những người mới. Nhưng thỉnh thoảng
cũng có những con chiên từ xa tới thăm Cha.
- Tại
sao Cha dễ mến như vậy mà họ không theo đạo đông nhỉ?
Nghe mấy chữ “Cha dễ mến” Cha Độ và Diễm Hương
cùng mĩm cười.
- Vì
Cha không kêu gọi họ vào đạo, mặc dù họ mến Cha.
- Tại
sao Cha không kêu gọi họ vào đạo, thưa Cha?
- Cha
cảm hóa họ sống theo lời Chúa dạy, biết giữ những điều răn, biết thương yêu
giúp đỡ mọi người chung quanh mà không cần mang nhãn hiệu tín đồ Thiên Chúa
giáo. Họ đã là tín đồ của Chúa mà họ không hay biết. Với Cha thấy, khi có nhãn
hiệu và hình thức thì loài người bắt đầu chia rẽ với nhau.
Vũ kinh ngạc tột độ, nhìn Cha không chớp mắt.
Cha đã đập vỡ cái tháp ngà tôn giáo để thành biển cả đón nhận mọi dòng sông.
- Người
ta nhân danh tôn giáo (Cha tiếp) để kêu gọi mọi người hướng thiện. Nhưng người
ta cũng vì nhãn hiệu và hình thức tôn giá để chia rẽ tranh đấu với nhau. Thế
giới hôm nay đã trở thành nhỏ bé và gần gũi. Đã đến lúc mọi người cần đến những
chân lý không có nhãn hiệu. Vì thế Cha không khuyến khích họ theo đạo mặc dù vẫn
luôn luôn hướng dẫn và giúp đỡ họ.
Diễm Hương mĩm cười hài lòng vì thấy Vũ đang
bị ngã quỵ trước Thánh giá.
Vũ hỏi:
- Thưa
Cha, có phải Thiên Chúa đã tạo ra tất cả?
Vũ đem câu hỏi quan trọng nhất trong hệ thống
thần học của Catholic và cũng là nỗi bất mãn nhất trong đời chàng. Cha Độ đáp:
- Nào
giờ mọi người vẫn tin và hiểu như vậy. Cha không phủ nhận điều đó, chỉ xin phép
bổ túc thêm một ý nghĩa về Thiên Chúa mà Chúa Jésus đã tuyên bố:
“Chúa đi về Galilée ngang qua xứ Samaria. Ngài
đến gần đồng ruộng mà Jacobê cho Joseph là con mình. Tại đó có cái giếng
Jacobe. Chúa ngồi gần bờ giếng lúc giữa trưa. Một phụ nữ Samaria đến múc nước.
Chúa bảo:
- Hãy
cho ta uống nước.
Vì môn đồ Ngài đã vào làng tìm thực phẩm.
Người phụ nữ trả lời:
- Ông
là người Jewda mà lại xin nước cùng tôi à!
(Bởi vì dân Jewda chẳng hề giao thiệp với dân
Samaria)
Chúa đáp:
- Nếu
ngươi biết người xin nước của ngươi là ai thì có lẽ ngươi đã trở lại xin ta để
được cho uống.
- Ở
đâu ông có nước đấy, giếng thì sâu mà ông không có đồ múc. Tổ phụ Jacobe đã để
lại giếng này cho chúng tôi, ông hơn Jacobe sao?
- Nước
này không làm người ta vĩnh viễn hết khát. Nhưng nước của ta chấm dứt mọi sự
khát bỏng và đưa đến sự sống đời đời.
- Nếu
vậy ông hãy cho tôi nước đó đi.
- Ngươi
hãy gọi chồng ngươi ra đây.
- Tôi
không có chồng.
- Đúng,
ngươi đã ở với năm người đàn ông và người thứ sáu này cũng không phải chồng
ngươi.
- Thưa
Ngài, Ngài thật là một đấng tiên tri. Thưa Ngài Tổ phụ chúng con bảo phải thờ
Thiên Chúa trên đỉnh núi này, tại sao người Do Thái lại nhờ Thiên Chúa ở
Jérusalem?
Chúa bảo:
- Này
cô gái, đã đến lúc không thờ Thiên Chúa trên đỉnh núi hay trong đền Thánh mà
phải thờ trong tinh thần và trong chân lý bởi vì Thiên Chúa là tinh thần là
chân lý.”
Ở đoạn kinh Thánh này, con thấy, Chúa Jésus
không đưa ra một định nghĩa thần bí về Thiên Chúa mà chỉ khẳng định rằng Thiên
Chúa là tinh thần và chân lý. Khi nào con người đạt được chân lý trong tâm hồn
họ. Khi đó họ tìm thấy Thiên Chúa. Không phải họ ngước lên trời cao hay phủ
phục dưới bệ thờ mà có thể tìm thấy Thiên Chúa đích thực. Họ chỉ cần xoay lại
nội tâm để tìm thiên Chúa trong đó. Vũ hỏi:
- Thế
tại sao Chúa Jésus bảo rằng “Cha ta sai ta đến cứu vớt trần gian”, thưa Cha?
Cha Độ tiếp:
- Nào
giờ mọi người vẫn hiểu rằng có một Thiên Chúa là Cha đức Kitô, sai người đến
cứu vớt trần gian. Cha không phủ nhận điều đó, chỉ xin phép được đóng góp thêm
một ý nghĩa nhỏ bé. Tại sao con cứu Diễm Hương, cái gì thúc đẩy con?
Thái Vũ suy nghĩ một thoáng rồi đáp:
- Thưa
Cha, phải chăng lương tâm con đã thúc đẩy con cứu người vô tội?
- Con
nói đúng, chính lương tâm tối thượng trong lòng con đã sai con cứu lấy người vô
tội. Nếu đoạn trước Chúa Jésus đã định nghĩa Thiên Chúa là tinh thần và chân
lý, thì ý nghĩa “Đấng sai ta” ở đây cũng nên được hiểu rằng đó là lương tâm tối
thượng.
- Thưa
cha, dường như lương tâm là do sự chi phối của tập quán xã hội chứ đâu có một
lương tâm tự nhiên có sẵn?
- Vũ
có đồng ý với Cha rằng người có công đáng được thưởng và người có tội đáng bị
phạt không?
- Thưa
Cha, con đồng ý.
- Diễm
Hương có đồng ý với Cha rằng công thì thưởng, tội thì phạt không?
- Thưa
Cha, Diễm Hương đáp, con đồng ý.
- Chẳng
phải riêng hai đứa con, mà tất cả mọi người đều tự nhiên chấp nhận nguyên lý
tuyệt đối “công thì thưởng, tội thì phạt”. Sự chấp nhận đó Cha gọi là lương tâm
tối thượng. Tuy nhiên, quan niệm thế nào là công, thế nào là tội thì do tập
quán của xã hội. Có địa phương cho rằng chồng nhiều vợ là không tội. Nhưng có
nơi thì rất tội. Có địa phương cho rằng giết kẻ khác là không tội, nhưng có nơi
thì buộc tội. Có tôn giáo cho rằng giết kẻ ngoại đạo là có công, nhưng người
khác thì lên án gắt gao. Công và tội thì được thay đổi theo không gian và thời
gian, nhưng nguyên lý tuyệt đối “công thì thưởng, tội thì phạt” thì bất biến.
Đó là lương tâm tối thượng của mỗi người. “Đấng sai ta” phải được hiểu là lương
tâm tối thượng của Chúa thúc đẩy người đến cứu vớt trần gian. Một ý nghĩa khác
để hiểu về Cha là Đấng có Tình Thương Yêu vô cùng lớn.
Vũ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc
nhiên khác. Cha Độ đã xé toạc bức màn thần bí của Kitô giáo để phơi bày trở lại
ý nghĩa thực tế, trong sáng và bình dị của nó.
Diễm Hương lên tiếng:
- Giải
thích theo kiểu Cha thì hết còn cái gì cao siêu huyền bí. Nào giờ mọi người vẫn
hiểu Thiên Chúa sáng tạo ra tất cả và thấy ý nghĩa đó huyền bí. Bây giờ Cha nói
như vậy làm cho con thấy Catholic trở lại bình thường, mặc dù có vẻ thực tế,
hợp lý và gần gũi.
Cha Độ bảo:
- Bình
thường nhưng bền bĩ con ạ. Còn tính chất cao siêu huyền bí sẽ không tồn tại lâu
khi khoa học và triết học tiến bộ như hiện nay. Họ nói Thiên Chúa sáng tạo ra
tất cả thì các Triết gia chỉ cần đặt câu hỏi:
“Thế ai đã tạo ra chiến tranh, thiên tai, bệnh
hoạn, nỗi đau khổ và sự ác độc của trần gian?” Và các nhà khoa học dùng viễn
vọng kính quan sát khắp cả vũ trụ mà không tìm thấy ngai vàng của Thượng đế. Họ
giải thích gần hết mọi hiện tượng lạ lùng trong tự nhiên và uốn nắn thiên nhiên
phục vụ con người.
Đã đến lúc mọi cái gì huyền thoại không còn
đứng vững nữa. Chúng ta cần hiểu lời dạy của Chúa Jésus một cách khác hẳn, thực
tế hơn, hợp lý hơn, trong sáng hơn và gần gũi hơn. Tuy điều đó làm cho Thiên
Chúa giáo có vẻ bình thường nhưng sẽ bền bĩ và tồn tại mãi mãi.
Dùng thần linh có thể hù dọa được người thời
xưa, nhưng không dọa được người của thời đại mà tự họ có thể làm nổ tung quả
đất.
Vũ cảm thấy chàng đã buông rơi khí giới trước
vị linh mục kỳ lạ này. Sa mạc tâm hồn chàng từ lâu khát bỏng mạch nước chân lý,
bỗng hôm nay gặp được dòng suối trong vắt ngọt lành và chàng đã uống được những
ngụm đầu tiên.
Gần bảy năm rời xa gia đình với bao nhiêu là
băn khoăn trăn trở, đến hôm nay chàng mới đặt chân đến được phương trời mơ ước
bấy lâu. Vũ có cảm tưởng như Cha Độ, với hình ảnh của Thánh Pierre, cần giữ
chìa khóa của Thiên đường, nhưng chiếc chìa khóa đó làm bằng một loại thép do
con người tự đúc lấy và biết làm cho nó bền bĩ “inoxydable”. Còn chìa khóa do
thần linh đem đến, vì quá lâu, đã hoen rỉ không còn dùng được nữa.
Diễm Hương trở dậy lấy giỏ xách bày ra các
loại bánh trái. Nàng sắp một ít lên đĩa trên bàn, và đem phần nhiều cất vào tủ
bếp của Cha. Nàng soạn đậu khuôn và các thức ăn légume để chuẩn bị bữa trưa cho
Cha Độ.
Vũ hỏi:
- Cha
cũng dùng thức ăn thực vật, thưa Cha?
Cha Độ cười:
- Tại
em con cho Cha mượn cuốn “Tuổi già và thận” của Tiến sĩ Hoàng Tuấn, trong đó có
nói đạm mỡ động vật gây nên xơ vữa động mạch tạo thành những bệnh lý tuổi già
nên Cha đổi sang dùng thức ăn thực vật. Con cũng vậy sao?
- Vâng,
thưa cha.
Buổi trưa đó họ dùng cơm với Cha Độ trong một
không khí êm đềm ấm cúng. Sau bữa cơm Cha Độ đưa họ đi dạo quanh khu vườn nhỏ
của giáo đường. Cha Độ sắp xếp những lối đi dạo trong vườn rất mỹ thuật. Những
viên đá nằm rải rác đây đó khiến cho khu vườn trở nên hoang dã hơn. Diễm Hương
thỏ thẻ kể lại những ngang trái trong cuộc tình duyên của nàng và nhờ Cha Độ
cho ý kiến. Cha Độ mĩm cười:
- Một
thời gian nữa, cha tin rằng, hai đứa con sẽ tìm thấy hạnh phúc chân thật mà ít
có ai tìm được. Diễm Hương có vẻ mừng vì lời tuyên đoán của một vị linh mục mà
nàng xem như thần thánh. Họ từ giã Cha ra về. Diễm Hương quỳ xuống hôn bàn chân
của Cha. Vũ nắm lấy bàn tay già nua của Cha và xin được trở lại để hầu chuyện
với Cha.
Khi đi ngang đồi Cù, Vũ dừng xe lại dắt Diễm
Hương leo lên đồi ngồi dưới gốc thông. Diễm Hương thỏ thẻ:
- Chúng
ta ráng chờ nhau, anh nhé!
Vũ đưa tay vén những sợi tóc buông lơi trên
trán nàng:
- Đời
anh hai lần bị ngã quỵ. Một lần dưới chân em và một lần dưới chân Cha. Khi ngồi
ngã quỵ dưới chân em, anh nghe lòng ngập tràn hạnh phúc của tình yêu. Khi ngã
quỵ dưới chân Cha, anh nghe lòng ngập tràn niềm vui của chân lý. Từ nơi Cha anh
bắt đầu gặp những tia sáng đầu tiên của niềm khao khát bấy lâu. Tuần sau anh sẽ
đến Cha một mình, em đừng trông nhé.
- Vâng,
anh đến Cha, em rất vui.
b
Những giáo dân lần lượt ra khỏi ngôi giáo
đường đơn giản. Họ có vẻ thành kính, hiền lành và bình dị. Vũ cảm thấy quý mến
họ vì biết rằng họ được tắm mát bằng những lời dạy của vị linh mục thánh thiện
này. Chàng dắt xe tránh họ và đi vào phía ngôi nhà nhỏ của Cha Độ.
Cha cởi chiếc áo dòng ra và ngồi nghỉ trên ghế
mây, trên bàn tách trà bốc khói.
- Em
con đâu, Vũ?
- Thưa
Cha, con từ công trường đến thẳng ở đây.
Vũ vừa đáp vừa quỳ xuống một bên nắm lấy tay
Cha.
- Ngồi
ghế đi con.
Vũ ngồi lên ghế, tự tay rót cho mình tách
nước.
- Sau
buổi lễ Cha có mệt lắm không, thưa Cha?
- Không
sao đâu, con.
- Thưa
Cha, ai đã tạo ra quỷ Satan, và theo Cha, phải hiểu quỷ Satan như thế nào?
- Con
ạ, nào giờ mọi người vẫn hiểu quỷ Satan là một đối tượng bên ngoài đến cám dỗ
con người rơi vào sa đọa. Cha không phủ nhận ý nghĩa đó, chỉ xin phép đóng góp
thêm một ý nghĩa nhỏ bé rằng. Con còn nhớ chuyện quỷ Satan đến cám dỗ Chúa
Jésus trong những ngày Chúa luyện mình nơi cô tịch không?
- Thưa
Cha, con còn nhớ.
- Kể
lại Cha nghe đi.
- Thưa
Cha, “Đức Chúa Jésus đến nơi đồng vắng. Ngài đã nhịn ăn bốn mươi ngày rồi. Quỷ
Satan đến gần Ngài nói rằng:
“Nếu ngươi phải là con Đức Chúa Trời thì hãy
khiến đá này trở thành bánh đi”
Chúa đáp :
“Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh mà còn
nhờ những lời dạy của Thiên Chúa” Quỷ Satan bèn đem Ngài đặt trên nóc đền thờ
và nói rằng :
“Nếu ngươi phải là con Đứa Chúa Trời thì hãy
gieo mình xuống vì có lời chép rằng: Chúa sẽ truyền các thiên sứ giữ gìn ngươi.
Các vị ấy sẽ đỡ ngươi trong tay.
Không để chân ngươi vấp nhằm đá.”
Chúa đáp:
“Cũng có lời chép rằng, ngươi đừng thử Chúa là
Thiên Chúa của ngươi”
Quỷ Satan lại đem Ngài lên núi rất cao chỉ cho
Ngài các nước ở thế gian với sự vinh hiển của nó mà nói rằng:
“Nếu ngươi cúi lạy ta thì ta sẽ ban cho ngươi
tất cả những điều này”
Chúa bảo rằng:
“Hỡi, quỷ Satan, hãy lui ra. Vì chỉ có một
Thiên Chúa mới đáng được phụng thờ cúi lạy” Quỷ Satan không làm gì được bèn bỏ
đi.”
Cha Độ gật đầu nói:
- Con
nhớ kỹ đấy. Quỷ Satan tượng trưng cho những khoái cảm ngay trong con người. Tất
cả những gì đem đến khoái cảm đều là sự hiện diện của Quỷ Satan như ăn uống,
tình dục, của cải, địa vị, danh tiếng...Theo y học phân tích thì các khoái cảm
đó thuộc về hệ thống thần kinh thực vật ở đầu tủy sống. Những khoái cảm đó thúc
đẩy thần kinh trung ương phải chìu theo nó, lập những mục đích thỏa mãn nó, lập
ra phương thức tìm kiếm nó và ra lệnh cho cơ thể lao vào hành động. Nó không có
ngôn ngữ, mà chỉ vô hình âm thầm thúc đẩy lên não bộ sự đòi hỏi của nó. Nếu não
bộ chìu theo nó thì não bộ lăng xăng hoạt động để thỏa mãn sự thúc bách của nó.
Thí dụ nó cần khoái cảm của địa vị, nó thúc
đẩy não bộ phải đi tìm địa vị. Nếu não bộ chìu theo nó thì bắt đầu cực khổ lăng
xăng để hướng về địa vị. Tương tự với những việc ăn uống, tình dục, vui chơi,
danh vọng.
Hầu hết con người đều bị nó thúc đẩy trong
từng giờ phút mà không thoát ra được. Nó mời gọi, dụ dỗ, sai khiến và khống chế
con người, rồi đưa con người vào trong tội lỗi bi đát.
Một người cậu cưỡng hiếp cháu gái của mình rồi
giết đi. Một người cháu giết bà của mình để đoạt của. Tất cả tội lỗi trên thế
gian này đều là sự cám dỗ của quỷ Satan, tức là khoái cảm của thần kinh thực
vật.
Chỉ có Chúa Jésus, người biết giam mình trong
cô tịch và thanh khiết, mới thấy được bộ mặt vô hình của nó và chiến thắng nó.
Chúa không chiến thắng nó bằng phép lạ và quyền lực mà chỉ bằng sự bình tĩnh ôn
hòa của mình. Vì sao, vì những sự cám dỗ đó ở ngay trong chính mình. Chúng ta
không cần một phép lạ nào để khống chế cám dỗ, mà chỉ lắng lòng thanh tịnh vời
sự bình tĩnh vô biên, không chìu theo thúc đẩy của khoái cảm thì quỷ Satan biến
mất.
Vũ buột miệng khen ngợi:
- Catholic
qua tay Cha bỗng trở nên minh bạch rõ ràng. Cha tháo gỡ mấy cái cục đá thần bí
đeo cứng trong tôn giáo từ bây lâu và làm cho nó trở nên thăng hoa thoát xác.
Người xưa tô điểm bao nhiêu là thần thoại hoang đường trong tôn giáo vì muốn
làm cho nó cao siêu lên, không ngờ làm cho nó thấp giá trị xuống. Còn Cha tháo
gỡ những hoang đường, làm cho nó gần gũi bình dị lại, không ngờ đã khiến cho nó
siêu thoát hơn.
Cha Độ tiếp:
- Cha
có nghe kể vị giáo chủ của Đạo Phật là Thích Ca cũng sống cô đơn trong rừng rồi
bị Ma Vương cám dỗ. Vị ấy không dùng phép lạ để chiến thắng nó mà chỉ giữ tâm
thanh thản bất động. Ma Vương đành chịu thua. Chuyện rất giống với chuyện của
Chúa. Nhưng không biết bên Phật giáo, các tín đồ đã hiểu câu chuyện đó như thế
nào, có giữ nguyên tín chất thần thoại hay không?
- Thưa
Cha, làm thế nào để con người có thể tìm thấy Thiên Chúa ngay nơi tâm mình?
- Đó
là câu hỏi mà Cha thắc mắc mãi khi Cha còn ở nhà dòng. Thuở Cha còn bé, bố mẹ
Cha muốn Cha trở thành linh mục vì thấy Cha ngoan ngoãn hiền lành và hay trầm
tư. Rồi Cha được đưa vào nhà dòng năm mười lăm tuổi. Những cái trăn trở của con
đối với hệ thống thần học cũng chính là những cái băn khoăn nơi Cha. Mặc dù
được học giáo lý, nhưng Cha không thỏa mãn vì những điểm chưa hoàn hảo mà Cha
tự suy gẫm. Cha yên lặng không nói với ai và thường hay cầu nguyện nhờ ơn Chúa
soi sáng những thắc mắc của Cha. Nhưng Cha không nhận được một sự đáp ứng nào
cả. Đôi khi Cha có cảm tưởng như mình đang gõ vào một cánh cửa đã khóa từ bên
ngoài. Rồi Cha đọc kỹ lại từng câu, từng chữ trong phúc âm. Có hai điểm trong
phúc âm xoáy mạnh vào lòng Cha nhất đó là:
Chúa bảo: “Ai muốn theo ta phải chối bỏ chính
mình, và chỉ có những người tâm hồn như trẻ thơ mới vào được Thiên quốc.”
Cha tự hỏi thế nào là “chối bỏ chính mình” và
thế nào là “tâm hồn trẻ thơ.”
Tâm hồn trẻ thơ dễ hiểu vì đó là tâm hồn nhiên
không hận thù, ganh ghét, không lo lắng băn khoăn. Từ đó Cha tập buông bỏ những
suy tư tính toán trong lòng mình để đạt được tâm hồn vô tư như Chúa dạy. Những
câu hỏi chối bỏ chính mình thì Cha chưa giải đáp được.
Những giờ cầu nguyện, Cha quỳ trước thánh giá
mà đâu có cầu nguyện gì, chỉ mãi lo đi tìm ý nghĩa sự chối bỏ mình. Các thầy
dòng thấy Cha quỳ bất động trước thánh giá rất lâu thì khen Cha hết lòng thờ
phụng Chúa. Một hôm Cha suy nghĩ rằng sự chối bỏ chính mình không thể có nghĩa
là tự tử giết đi cái thân, nhưng chỉ có thể có nghĩa là chối bỏ hết những ý
nghĩ từ nơi mình phát khởi. Sở dĩ chúng ta không theo Chúa trọn vẹn vì chúng ta
còn mãi đi theo những suy nghĩ của chính mình. Chúng ta đã bênh vực ý kiến
riêng tư của chính mình, đã sống theo thành kiến của cá nhân, đã chìm sâu trong
ước mong của tự kỹ. Những ý nghĩ từ nơi chúng ta đã xô chúng ta đi về hướng
khác. Chúa vẫn đứng đấy với vòng tay rộng mở, nhưng chúng ta đã quay lưng lại
với Người để chạy theo ý nghĩ do ta tạo nên, mặc dù miệng chúng ta vẫn lẩm
nhẩm:”chúng con trọn lòng thờ phượng Chúa”. Sự chối bỏ chính mình chắc chắn là
chối bỏ hết mọi tâm tư tình cảm của chúng ta. Nghĩ ra điều đó Cha muốn la lên
vang dội để bày tỏ niềm vui của mình, nhưng Cha kịp thời dừng lại. Sự hồn nhiên
của trẻ thơ và sự chối bỏ chính mình chỉ là một. Cha sung sướng tạ ơn Chúa và
đứng dậy. Các thầy thấy Cha rạng rỡ nét mặt và trên môi phảng phất một nụ cười
hoan lạc thì nghĩ rằng Cha đã được Chúa mặc khải một điều gì đó quan trọng lắm.
Họ có hỏi Cha, nhưng Cha dấu kín điều mình khám phá.
Từ đó Cha tập dừng lắng mọi sự suy nghĩ..
Vũ chợt nhớ tới phương pháp luyện khí công của
mình nên hỏi:
- Cha
đã dừng lắng bằng cách nào, thưa cha?
- Cha
để ý thấy rằng sự chú ý và ý nghĩ là hai cái hoàn toàn khác nhau. Khi ý nghĩ nó
theo thói quen khởi dậy, liền đó cái chú ý cũng bám theo để gia tăng sức mạnh
cho ý nghĩ suy nghĩ mãi. Ví dụ ý nghĩ về gia đình vừa lóe dậy liền đó sức chú ý
cũng bám theo khiến cho vấn đề gia đình được đào sâu thêm. Trong khi suy nghĩ
về gia đình, chợt có liên quan đến hàng xóm thế là sức chú ý lại bám theo vấn
đề hàng xóm. Trong vấn đề hàng xóm, chợt có liên quan đến vấn đề gây gổ, thế là
sức chú ý lại bám theo vấn đề gây gổ.
Cứ thế, cái chú ý cứ bám theo ý nghĩ này sang
ý nghĩ khác mà không dừng lại được. Thế rồi những vấn đề suy nghĩ lại sinh ra
tình cảm thương ghét. Khi suy nghĩ đến chuyện vừa ý, niềm thương khởi dậy. Khi
suy nghĩ đến chuyện trái ý, nỗi ghét dâng lên.
Ở phía trên thì dòng tư tưởng miên man trôi
chảy. Ở phía dưới thì cơn sóng tình cảm nhấp nhô. Và thế là đường vào Thiên
Quốc bị mất lối.
Đầu tiên Cha tập không chú ý theo những ý nghĩ
trong đầu nữa. Nó khởi lên thì mặc kệ. Nhưng nó cũng gạt Cha hoài, cứ làm Cha
bị chú ý theo một lúc rồi mới sực tỉnh.
Lâu dần lâu dần Cha thắng nó từng bước. Ý nghĩ
thiếu sức chú ý nên khởi lên một cách yếu ớt, thưa thớt. Tâm Cha càng lúc càng
yên tĩnh sáng tỏ và rỗng rang. Mỗi khi quỳ trước tượng Chúa trong giờ cầu
nguyện, cha đâu có cầu nguyện gì chỉ lắng tâm trong yên tĩnh, canh chừng không
cho ý nghĩ dẫn cái chú ý đi theo. Sau này tâm cha yên tĩnh đến nỗi Cha quỳ dưới
tượng Chúa cả đêm. Nguyên nhà dòng thán phục Cha lắm và thì thầm với nhau rằng:
“Phải chăng thêm một vị Thánh đến với trần
gian”
Cha gọi sự lắng tâm đó là phép tĩnh tâm. Cha
tập phép tĩnh tâm thường xuyên trong đời sống. Cha trở nên càng lúc càng ít
nói, lòng yêu người càng lúc càng mênh mông, tâm khiêm hạ càng lúc càng sáng rỡ,
và những cái buồn giận oán hờn đã biến mất tự bao giờ. Niềm vui trong sự tĩnh
tâm đó quá tuyệt vời. Hạnh phúc của sự tĩnh tâm đó lớn lao hơn mọi hạnh phúc
của trần gian. Cha chợt hiểu đó chính là Thiên Quốc mà Chúa đã ẩn dụ. Không
phải hạnh phúc của Thiên Qốc ở tại một cõi xa xăm nào trên những tầng trời cao,
mà quả thật nó ở ngay trong lòng người thuần thục với nội tâm yên tĩnh. Tuy
sống giữa trần gian này mà không có bụi trần nào vướng bận được.
Từ khi Cha hiểu được rằng Thiên Quốc chính là
hạnh phúc trong sự tĩnh tâm, cha phăng tìm mọi giáo lý khác và tìm thấy ý nghĩa
đích thực của lời Chúa. Cha cởi bỏ hết những thần thoại hoang đường và cho
chuyện thần thoại chỉ là những ẩn dụ cho những ý nghĩa thực tế mà thôi. Đó là
lý do tại sao con thấy Cha hiểu về Chúa rất bình dị, gần gũi.
Vũ cũng thấy rằng những khi chàng nhiếp tâm
trong hơi thở, chàng cũng có cảm giác hoang lạc sung sướng. Chàng hỏi:
- Thưa
Cha, sự không suy nghĩ có khiến người ta trở nên mất trí khôn không?
- Con
ạ, chúng ta biết bằng hai cách, do suy nghĩ và do trực giác. Cái biết của suy
nghĩ thì dài dòng, quanh co nhưng có thể trình bày cho mọi người cùng hiểu. Còn
cái biết của trực giác thì thẳng tắt, chớp nhoáng nhưng không thể trình bày cho
người khác vì sao như vậy. Khoa học hiện nay đi theo con đường biết bằng suy
nghĩ chứ chưa mở rộng sang lĩnh vực biết trực tiếp.
- Thưa
Cha bắt đầu rồi ạ!
- Bắt
đầu thế nào con?
- Thưa
Cha, khoa học đang nghiên cứu dò dẫm về những năng lực phi thường tiềm ẩn của
con người. Họ gọi đó là Trường của Sinh học. Vừa rồi một hội nghị về Trường
Sinh học mở ra tại Tiệp Khắc có nhiều nhà bác học tham dự. Họ gởi tới cả trăm
bài tham luận về vấn đề này. Những hiện tượng biết được ý nghĩ người khác, biết
được chuyện sắp xảy đến, thông tin từ xa... đang là những điều được đặt ra để
nghiên cứu một cách nghiêm túc. Họ không còn cho là chuyện huyền hoặc nữa. Các
chuyên gia Liên Xô có cho biết một hiện tượng lạ của một người bị bệnh miên
hành (mộng du) đã đi xuyên qua vách tường sang phòng khác như đi qua không khí.
Ở trong Trường Sinh học này, những nguyên tắc vật lý từ trước bị phá vỡ hoàn
toàn.
Con thấy em Hương của con cũng có năng lực của
Trường Sinh học. Con không giấu em con được điều gì.
- Thế
là khoa học và tôn giáo sắp sửa gặp nhau rồi đấy. Khi thành công về phép tĩnh
tâm này, chúng ta sẽ biết bằng trực giác chứ không biết bằng suy nghĩ nữa. Và
trực giác thì biết được nhiều hơn suy nghĩ.
Khoa học cần phải mở rộng sang lãnh vực Trường
Sinh học mà con vừa nói. Còn tôn giáo phải bỏ đi những lối giải thích hoang
đường. Rồi họ sẽ gặp nhau.
- Thưa
Cha, ngày trước ông nội con có dạy con phương pháp luyện khí công để nhiếp tâm
không cho suy nghĩ. Con ngồi tréo hai chân giống như bức tượng Phật, thẳng
lưng, thở ra thở vào đều đặn và tập trung sức chú ý vào một chỗ trong ống mũi,
nơi mà hơi thở đi qua phát tiếng kêu se sẻ. Con có thể ngồi suốt cả giờ không
suy nghĩ.
Những bài vở trong trường con nghe qua một lần
là nhớ. Những bài tập đã tự con đoán ra kết luận trước khi đi tìm chứng minh.
Con thấy các nhà khoa học nổi tiếng đều như vậy họ đoán được kết luận trước khi
đi tìm chứng minh.
- Con
tập khí công để làm gì?
- Thưa
Cha, do sức nhiếp tâm trong hơi thở con phát được tâm lực để luyện võ thay cho
sức của bắp thịt. Con nhảy cao, nhảy xa, đánh, đá đều dùng ý của lực chứ không
dùng sức bắp thịt nữa.
- Còn
trong đời sống bình thường con có tĩnh tâm không?
- Thưa
Cha, con không có biết tĩnh tâm trong đời sống, chỉ thấy do công năng của khí
công con thấy tâm mình thanh thản trong đời sống mà thôi.
Con đến gần được Thiên Quốc. Cái kẹt của con
là con còn giữ lại mục đích phát ra tâm lực luyện võ, đó là mục đích thuộc về
trần gian. Cha nghe nói những đạo sĩ Yoga ở Ấn Độ cũng nhiếp tâm giống như con,
nhưng vì mục đích trường sinh và phép lạ. Cha cũng cho đó là những mục đích của
trần gian. Nếu ta nhiếp tâm để chối bỏ chính mình thì chân lý sẽ xuất hiện.
Những gốc thông già lác đác thưa thớt bên
những mái nhà và những nương rẫy choufleur đang đến độ sắp thu hoạch. Những ống
khói thơ thẩn thả khói vào không gian và những người gái má hồng ven theo đường
làng trở về mái ấm.
Trăng rằm đang lố dạng ở góc trời mặt dù trời
chưa tắt hẳn những tia nắng cuối. Giáo đường vang lên những tiếng chuông chiều
và chim ríu rít gọi nhau về tổ. Dòng sối nhỏ chảy băng qua chân đồi rồi đổ về
thung lũng xa xa.
- Thưa
Cha, con mới đến.
- Vậy,
đêm nay con ở lại với Cha, nhé. Cất xe vào nhà đi con rồi đi dạo với Cha. Chiều
con đã dùng gì chưa?
- Thưa
Cha con đã dùng rồi ạ.
Cha Độ và Thái Vũ đi song song bên nhau ra
khỏi cổng giáo đường, men theo đường làng dẫn về xóm nhà thưa thớt. Những đứa
bé thấy Cha chạy ùa ra ôm lấy Cha inh ỏi, Cha hôn lên trán chúng và hỏi han về
gia đình, việc làm và việc học.
Một đứa bé hỏi:
- Sao
con thấy nhiều người đi lễ nhà thờ vào chủ nhật mà ba mẹ con không đi, Cha ạ.
Mai chủ nhật Cha cho con lại đi lễ nhé. Con cũng có một bộ đồ mới.
Cha Độ vuốt tóc nó:
- Ờ
mai con đến Cha cho ăn kẹo.
Chúng chào Cha rồi quay vào.
- Cha
về đây đã lâu sao Cha không cất lại giáo đường cho khang trang hơn, thưa Cha.
Vũ hỏi.
- Cha
không muốn mọi người tốn tiền vào công việc đó, con ạ. Cha muốn sống nghèo như
những người dân ở đây. Với Cha tôn giáo là niềm vui của trẻ thơ, là tình thương
yêu của mọi người, là sự ấm êm của xóm làng, là con suối chảy về thung lũng xa,
là rừng thông reo vi vu trước gió, là triền đồi thoai thoải êm xuôi. Cha không
muốn vì tôn giáo mà cung điện được dựng lên cho giáo sĩ. Giáo đường mà Cha cố
gắng xây dựng suốt cả đời mình là sự thánh thiện trong tâm hồn của mọi người.
Người ta không hạnh phúc vì giáo đường hùng vĩ, nhưng sẽ hạnh phúc vì đạo đức
của tâm hồn họ.
- Thưa
Cha, ở làng này có những người có đạo và không đạo có chia cách với nhau lắm
không?
- Như
những đứa bé lúc nảy đấy, con ạ. Họ khác nhau về đi lễ chủ nhật hay không mà
thôi, còn họ sống với nhau rất hòa thuận. Có những người không hề đi lễ mà vẫn
có cảm tưởng là con chiên của Cha. Cha cố gắng xóa đi nhãn hiệu và hình thức,
chỉ giữ lại đạo đức và tình thương để ban phát chung cho mọi người.
- Trong
buổi lễ, khi giảng đạo, cha có phá vỡ tính cách huyền bí của tôn giáo không,
thưa Cha?
- Không,
con. Cha không đá động đến niềm tin đã ăn sâu trong lòng họ vì họ chưa đủ thông
cảm với Cha, cũng như những thầy dòng cùng tu với Cha vậy. Cha chỉ nêu lên
những đạo đức thực tế để dạy họ và lấy đời sống của mình để làm gương cho họ.
Vì Cha ít nói đến chuyện thần bí nên lần lần họ cũng bớt để ý đến khía cạnh đó.
Con th ấy, Chúa Jésus đã sinh ra
và chết đi như một người bình thường, thậm chí còn vất vả hơn người thường.
Ngài sinh ra trong hang đá ngoài đồng, được đặt trên máng cỏ. Ngài chết đi vì
bị đóng đinh trên thập giá chung với hai tên tội phạm. Chúa đã đến với cuộc đời
và ra khỏi cuộc đời một cách thực tế, bình thường và bi đát như vậy, thì có
nghĩa là lời dạy của Ngài cũng phải thực tế và bình dị như vậy.
- Thưa
Cha, còn việc Chúa phục sinh sau ba ngày bị đóng đinh là thế nào?
- Cha
không phủ nhận ý nghĩa thần bí mà mọi người đã chấp nhận, chỉ xin phép đóng góp
một ý kiến nhỏ bé rằng, con nhớ trước khi bị đóng đinh, Chúa đã bị người ta
chửi mắng, nhổ nước bọt, nhạo báng, đánh đập, và Ngài chịu đựng mọi sự trong
thương yêu tha thứ.
Sự phục sinh của Ngài là tượng trưng cho sự
BẤT TỬ vĩ đại của tình thương yêu và sự tha thứ. Cái gì rồi cũng đi qua, nhưng
giá trị của tình thương yêu và sự tha thứ thì không ai làm cho chết được, chúng
sẽ sống mãi trong lòng của muôn người qua bao nhiêu thế hệ. Đến ngày nay mà
Chúa vẫn sống trong lòng của mọi người. Sự BẤT TỬ vĩ đại của Chúa là như vậy và
sự phục sinh là một ẩn dụ duyên dáng.
Chúng ta cũng có thể hiểu sự kiện Phục sinh
theo ý nghĩa khác, đó là, Chúa không thực sự chết lúc ở trên Thập giá. Người
chỉ đi sâu vào sự tĩnh tâm đến nỗi có thể dừng hơi thở lại. Đến khi còn lại một
mình trong hang mộ, Người đi ra khỏi sự tĩnh tâm sâu thẳm đó và trở lại cuộc
sống bình thường. Chính Cha cũng vậy, rất nhiều lần Cha đã đi sâu vào sự tĩnh
tâm đến nỗi không còn hơi thở, quên hết thế gian, quên cả không gian và thời
gian. Ai mà nhìn thấy Cha lúc đó sẽ nghĩ rằng Cha đã chết.
- Thưa
Cha, suốt một tuần rồi con cũng cố gắng áp dụng phép tĩnh tâm của Cha trong đời
sống và thấy tâm hồn mình dễ chịu. Tối con vẫn giữ lại hai thời nhiếp tâm theo
phương pháp khí công và con thấy hai phương pháp hỗ trợ nhau khá nhiều. Nhưng
con bận phải tổ chức, điều hành, theo dõi, tính toán mọi việc nên không thể
chuyên tâm trọn vẹn như Cha được.
- Làm
việc là một bổn phận thiêng liêng của con người. Con cố gắng làm tròn bổn phận
của mình đối với cuộc đời. Khi nào làm cứ làm cho chu đáo, khi nào nghỉ ngơi
thì tĩnh tâm trở lại. Lâu ngày con sẽ thấy lúc làm việc con vẫn tĩnh tâm được
và lúc đó thì công việc kỹ lưỡng chu đáo hơn lúc trước vì trực giác của mình
hay hơn sự suy nghĩ.
Chúng ta phải sống làm sao cho có lợi, nghĩa
là mình dùng một thì phải làm ra cho cuộc đời gấp hai gấp ba. Đừng có xài hai
ba mà chỉ làm ra có một. Hãy mừng vì con đóng góp nhiều cho cuộc đời. Chợt Cha
Độ chỉ một đoạn đường gập ghềnh nhiều hố lỗ:
- Đoạn
đường này hư rồi. Có lẽ dân làng đang bận mùa nên chưa đắp. Tuần sau mà họ chưa
đắp thì con phụ với Cha, nhé!
- Con
gọi em con nữa.
f
Diễm Châu, Duy và Dương nghe được
đi thăm Cha Độ thì mừng lắm vì Diễm Hương rủ chúng đi phụ Cha đắp lại đoạn
đường làng. Bà Văn nói:
- Mẹ
có cho Khánh biết đem xe lại đưa các con đi cho tiện.
Diễm Hương im lặng không đáp. Nàng loay hoay
soạn thức ăn mang theo. Tiếng xe của Vũ vừa ngừng ngoài cổng để đón nàng. Vũ
bước vào nhà chào ông bà Văn. Hai ông bà lịch sự chào lại rồi yên lặng. Ba đứa
nhỏ chạy tới kéo tay Vũ:
- Có
anh Vũ đi nữa, vui quá. Lâu quá anh không dạy võ tụi em.
Duy đá mấy thế cho Vũ xem:
- Anh
xem em đá đúng không?
Vũ cười:
- Em
đá đẹp lắm.
Diễm Châu nói:
- Hai
đứa nó cứ vật lộn nhau cả ngày. Thằng Duy cầm hai cục sỏi, ném một cục rồi nhảy
tới đưa cục kia lên cho mọi người coi. Nó la lên:
“Em bằng anh Vũ rồi”.
Tụi em cười quá chời.
Diễm Hương có vẻ vui khi thấy các em mình mến
Vũ. Có tiếng xe hơi của Khánh đến. Khánh bước vào nhà chào ông bà Văn rất lễ
phép. Ông bà Văn niềm nở với Khánh. Khánh quay lại chỗ Vũ và bốn chị em, kêu
lên:
- À
! hân hạnh chào anh thợ hồ, lâu quá chúng ta không gặp nhau. Sao công trình gần
xong chưa anh?
Khánh vừa nói vừa bước tới bắt tay Vũ. Vũ mĩm
cười:
- Dạ,
mới hơn phân nửa, Khánh ạ.
- Tay
nghề của anh xây mỗi ngày mấy mét vuông tường?
- Dạ,
có lẽ năm mét.
- Đủ
sống không anh?
- Dạ,
cũng vừa đủ.
- Khánh
quay sang chào Diễm Hương và mấy đứa nhỏ. Diễm Châu có vẻ tức vì Khánh ăn hiếp
Vũ, nói:
- Trong
khi chờ đợi chị Hương sắp đồ, anh Vũ đánh bài Lac de Côme cho tụi em nghe đi.
Vũ đáp:
- Bài
đó anh mới tập bữa hổm nên đánh chưa được, em ạ.
Diễm Châu đấm vào vai Vũ một cái rồi lại phụ
Diễm Hương.
Khi đồ đạc đã sẵn sàng bà Văn lên tiếng:
- Duy
đi xe với anh Vũ, nghe con!
Duy reo lên:
- A
! em được đi chung với anh Vũ.
Dương nói:
- Em
cũng đi với anh Vũ, em đứng đằng trước.
Khi mọi người chào ông bà Văn rồi đi xuống
triền đồi, Khánh hỏi:
- Xe
này anh mượn của ai vậy, anh Vũ?
- Của
ông chủ nhiệm, Khánh ạ.
Họ đánh xe đến Cha Độ. Cha đang ngồi uống trà
với những dụng cụ làm đất gần đấy như cuốc, xẽng, giỏ khiêng đất, xe cút kít.
Ba đứa nhỏ bỏ xe chạy túa vào la lên:
- Cha!
Cha!
Rồi ôm Cha mừng rỡ.
Cha Độ vuốt tóc chúng và âu yếm hỏi han từng
đứa về việc học. Duy khoe:
- Anh
Vũ dạy võ cho con nữa Cha!
- Thế
à, chừng nào rãnh biểu diễn cho Cha xem nhé!
Chúng ríu rít vây quanh Cha nói đủ thứ chuyện.
Cha lắng nghe tất cả và hỏi han từng đứa. Vũ có vẻ phục Cha trong việc kiên
nhẫn sống với tuổi thơ với những vấn đề vặt vảnh của chúng. Chỉ có lòng thương
yêu chân thành, người ta mới có thể quên mình để sống hẳn vào thế giới của trẻ
thơ. Diễm Hương quỳ xuống hôn lên bàn chân Cha. Vũ quỳ xuống nắm lấy bàn tay
Cha ôm vào ngực mình. Khánh lịch sự cúi đầu chào Cha, có vẻ ngạc nhiên trước sự
thân ái cung kính của mọi người đối với Cha như vậy.
- Ai
đây con?
- Khánh,
một người được ba mẹ con quý trọng.
Khánh nghe câu trả lời của Diễm Hương thì có
vẻ hãnh diện, nhưng Cha Độ liền hiểu ngay những ngang trái của nó.
- Các
con cất xe, uống nước rồi vác đồ theo Cha.
Họ lục đục mang đồ chất lên xe cút kít cho Vũ
đẩy. Họ chia nhau những thứ còn lại như cuốc, giỏ và đi theo Cha về cuối làng.
Cha chỉ một gò đất và bảo:
- Chúng
ta lấy đất ở đây để đem lại lấp những hố trũng.
Vũ và Cha cuốc gò lấy đất, Diễm Hương lấy xẽng
xúc vào giỏ cho ba đứa nhỏ khiêng lại các hố trũng trên đường. Khánh cũng đến
lấy xẽng phụ Diễm Hương xúc đất đổ lên xe cút kít. Vì có Khánh nên Vũ không hỏi
Cha các vấn đề tôn giáo. Họ làm việc trong yên lặng. Chợt Cha Độ ngừng tay quay
sang hỏi Khánh:
- Con
có quen tiệm thuốc tây nào ở Đà Lạt không?
Khánh lễ phép đáp:
- Thưa
Cha, con quen nhiều hiệu thuốc.
- Con
đánh xe mua cho Cha mấy hiệu thuốc như Anacin, Ampicilin và Terma nhé!
- Vâng
thưa Cha.
Khánh dựng xẽng xuống rồi quay đi.
Diễm Hương hỏi:
- Terma
là thuốc gì vậy Cha?
- Là
loại thuốc cho Khánh tìm tới chiều. Cha thấy có Khánh các con mất vui nên tìm
cách cho Khánh đi khỏi. Sau này Cha sẽ cảm hóa Khánh ở dịp khác. Khánh là người
rộng rãi đấy con ạ, không phải người xấu đâu. Nhưng có vẻ hãnh diện vì cái giàu
có của mình và dùng cái giàu để ăn hiếp Vũ trong cuộc chạy đua hôn nhân này.
Nhưng Khánh không thể là chồng con đâu, Hương ạ, vì tâm hồn Khánh còn sơ sài
quá.
Diễm Hương cười:
- Con
phục Cha luôn.
Khi thấy đất đã đầy, Vũ xúc lên xe cút kít rồi
đẩy đi lấp hố. Mấy đứa nhỏ vừa khiêng đất vừa nói chuyện huyên thuyên chúng có
vẻ thích thú vì lâu lâu được lao động nặng ngoài trời như vậy. Khi mệt họ dừng
tay ngồi quây quần dưới gốc thông lấy bánh nước ra dùng. Cha Độ bảo Duy Dương:
- Đâu
các con biểu diễn võ thuật cho Cha xem!
Hai đứa thích chí đứng lên vung tay múa chân,
đi tấn, đấm đá đủ cách rồi hỏi Cha:
- Con
đánh võ đẹp không, Cha?
- Các
con có khiếu đấy, còn gần anh Vũ được ngày nào ráng tập ngày ấy.
Diễm Châu nói:
- Tụi
con mong được gần anh Vũ mãi mãi.
Cha Độ bảo:
- Cha
không biết Chúa ở trên Thiên đường có những thiên thần ra sao, nhưng Cha thấy ở
trần gian này có các con đã là niềm vui cho Cha rồi.
- Nhưng
tụi con không có đôi cánh, Cha ạ!
- Cha
đố tụi con đôi cánh đó làm bằng gì?
Duy đáp:
- Thưa
Cha, làm bằng lông vịt!
Diễm Hương, Diễm Châu và Vũ phì cười. Dương
thấy Duy đáp sai nên đáp thay:
- Con
thấy trong hình vẽ giống lông ngỗng hơn.
Cha Độ cười thành tiếng, kéo hai đứa vào lòng
nói:
- Đúng
là nuớc trời thuộc về các con.
Diễm Hương hỏi:
- Thưa
Cha, làm sao tụi con có thể tìm thấy Thiên đường?
- Hôm
trước Cha có nói cho Vũ nghe về phép tĩnh tâm, con đường đi đến thiên quốc. Vũ
đã nói lại con nghe chưa?
- Ảnh
xấu lắm Cha, ảnh giấu một mình.
Vũ đáp:
- Tại
anh đang còn thực hành chưa trọn nên không dám nói cho em nghe.
- Anh
phải chỉ cho em cùng đi song song với anh. Anh tính lên thiên đường một mình
hả?
- Vũ
hãy chỉ cho Diễm Hương những gì con đang thực hành- Cha Độ nói- vì Cha
thấy các con phải về nước trời cùng lúc.
Vũ hỏi:
- Thưa
Cha, ý nhgĩa của ngày Sabbath là sao?
- Ngày
Sabbath theo kinh cựu ước là ngày cuối tuần, trong ngày đó con người phải theo
truyền thống Đức Chúa trời Jéhovah ngưng nghỉ hết mọi việc. Nhưng sự ngưng nghỉ
đích thực phải là sự ngưng nghỉ của nội tâm. Chúng ta có thể nghỉ việc tay
chân, nhưng tâm hồn còn lăng xăng loạn động thì chưa phải nghỉ Sabbath thực sự.
Đó là một ẩn dụ khéo, con ạ. Nào giờ mọi người chỉ biết suy nghĩ mà không biết
dừng suy nghĩ. Nhà trường chỉ dạy học sinh suy nghĩ mà không dạy học sinh dừng
suy nghĩ. Đó là nguyên nhân của bệnh tâm thần tràn lan trên thế giới. Phải có
những lúc để cho con người dừng lắng mọi suy nghĩ thì họ sẽ làm việc được lâu
bền hơn. Não bộ sẽ rất mệt khi mấy mươi năm liền không một lần ngừng nghỉ.
Diễm Hương hỏi:
- Khi
người ta ngủ, não bộ cũng được nghỉ ngơi vậy, thưa Cha.
- Không
đâu con, người ta còn bị mộng mị và những ý nghĩ thầm kín hoạt động chứ không
dừng tắt hẳn đâu con. Nhiều người bị thần kinh căng thẳng đến nỗi không ngủ
được. Thế nên mọi người cần tập phép tĩnh tâm để vệ sinh thần kinh. Đây là điều
cần thiết chung cho mọi người.
- Anh
Vũ có dạy tụi em nhiếp tâm bằng phương pháp khí công, đúng không Cha?
- Đúng
chứ, các con ráng tập thường xuyên.
Diễm Châu nói:
- Vậy
mà nhiều khi buồn ngủ quá, con vô giường ngủ luôn không chịu tập. Bây giờ con
về con ráng tập đều đặn để nghỉ ngày Sabbath.
Vũ nói:
- Thưa
Cha, còn tĩnh tâm thường xuyên trong đời sống được gọi là gì?
- Nếu
chúng ta tĩnh tâm thường xuyên tức là ngày nào cũng là ngày Sabbath, giống như
đất Chúa Trời tạo xong trời đất sáu ngày rồi nghỉ luôn kể từ ngày thứ bảy. Lúc
đó chúng ta trở thành như Chúa.
- Thưa
Cha, tạo xong trời đất sáu ngày có ý nghĩ gì?
- Tức
là làm xong bổn phận với xã hội đấy con ạ. Chúng ta phải trả ơn cho cuộc đời,
cho gia đình, cha mẹ, cho tất cả những gì nuôi nấng chúng ta đến khôn lớn bằng
cách làm việc xây dựng xã hội. Khi nào sự đóng góp đó đã xong xuôi, chúng ta sẽ
yên tâm nghỉ ngày Sabbath. Sáu ngày tứa là sáu mươi tuổi, hết tuổi lao động về
hưu đấy, con ạ.
Diễm Hương phì cười:
- Sao
Cha nói giống nhà nước quá!
Cha Độ tiếp:
- Nhưng
đối với những người tu phép tĩnh tâm thường xuyên trong đời sống, họ còn làm
việc mà đã nghỉ ngày Sabbath rồi, đây là những thiên thần giữa cuộc đời. Họ là
thiên sứ Gabriel mang thông điệp của Thiên Chúa đến với loài người. Họ sống
giữa cuộc đời để đem đạo đức và tình thương ban phát cho tất cả. Đây là những
viên ngọc quý giữa cuộc đời. Cha muốn các con tu phép tĩnh tâm thường xuyên
trong đời sống để làm thiên thần dù không có đôi cánh bằng lông vịt. Họ cười
thích chí.
Cha tiếp.
- Còn
những người tầm thường thì đợi tới tuổi về hưu mới tập phép tĩnh tâm để dưỡng
già. Vũ hỏi:
- Thưa
Cha, lúc nảy Cha nói “trở thành như Chúa” là thế nào? Làm sao con người bằng
Chúa được?
Cha đáp:
- Con
có nhớ trong phúc âm Luca 6:28 Chúa có nói:
“Môn đồ không hơn thầy, nhưng nếu môn đồ được
trọn vẹn thì sẽ bằng thầy mình” Con thấy đấy, Chúa đã xác nhận chúng ta có thể
đạt đến như Chúa. Khi nào người cha thương con hết lòng đều muốn đứa con bằng
mình hoặc hơn mình. Vì Chúa thương con người trọn vẹn nên ngài muốn con người
cũng bằng được như ngài. Chúng ta chưa từng thương ai trọn vẹn nên không hiểu
nỗi tình thương yêu của Chúa đối với chúng ta. Chúng ta bị tự ti mặc cảm nên tự
cho mình không thể bằng Chúa. Chúng ta hạ thấp tình yêu của Chúa bằng cách nói
rằng không ai bằng Chúa. Nếu chúng ta chấp nhận sự bất bình đẳng trong giáo lý,
chúng ta cũng sẽ xây dựng một xã hội bất bình đẳng y như vậy. Đó là tình trạng
của những thế kỷ 17, 18 mà giáo hội gây nên nhiều bất công ở Châu Âu, khiến cho
Voltaire chống đối giáo hội kịch liệt và phát sinh lý luận vô thần. Nếu chúng
ta hiểu được ý nghĩa bằng Chúa- bình
đẳng- chúng ta cũng sẽ xây dựng một xã
hội theo hình ảnh bình đẳng đó. Chúng ta hiểu sai một chút hay đúng một chút
thì hậu quả không phải nhỏ. Thôi đi làm tiếp con.
Họ lại đứng lên làm việc tiếp. Mãi đến trưa
khi Diễm Hương và Diễm Châu bày thức ăn trên bãi cỏ thì Khánh lái xe về đến
than:
- Terma,
chắc là hiệu thuốc mới nên Đà Lạt không có Cha a!
- Vậy
hở, con . Thôi nghỉ ăn cơm, con ạ.
Những hố trũng đã được lấp hơn phân nửa. Đến
chiều thì họ đã hoàn thành lấp lại hết cả đoạn đường, rồi trở về nhà Cha. Cha
hướng dẫn họ ra giếng rửa tay chân.
Khi mọi người chuẩn bị chào Cha ra về thì
Khánh rút ra một số tiền tươi cười đến đưa Vũ:
- Tôi
xin gửi anh số tiền này và cám ơn anh đã giúp đỡ chúng tôi nhiệt tình trong
ngày hôm nay. Vũ mĩm cười cầm lấy:
- Cám
ơn Khánh.
Diễm Hương nghiêm mặt lặng thinh. Diễm Châu
giận mím môi, nước mắt ứa ra.
Khi Khánh cho xe mở máy thì Diễm Hương ra lệnh
cho ba đứa em lên xe Khánh và bảo Khánh về trước. Nàng có vẻ nghiêm nghị nên
Khánh tiu nghỉu đánh xe đi. Còn lại nàng vàVũ trở vào, hai người ngối xuống đất
hai bên Cha. Vũ nói:
- Bây
giờ con mới biết tại sao em con thích ngồi dưới chân Cha.
Cha Độ hỏi:
- Các
con nghỉ đôi cánh thiên thần làm bằng gì?
Vũ và Diễm Hương cùng nhìn nhau và cùng biết
rằng họ đã có câu trả lời và muốn nhường người yêu trả lời trước.
Cha Độ lên tiếng:
- Các
con nhường nhau thì để Cha đáp thay.
Vòng ánh sáng trên đầu tượng trưng cho sự tĩnh
tâm trọn vẹn. Đôi cánh đó là tình yêu thương mọi người và lòng khiêm hạ vô
biên.
Rồi Cha đặt hai tay lên đầu họ nói tiếp:
- Hai
con chính là những thiên thần của Cha.
Họ nắm lấy đôi bàn tay già nua của vị linh mục
khả kính và nghe lòng ngập tràn sung sướng.
- Con
đến một mình, hả Vũ?
- Vâng,
thưa Cha. Con đến một mình.
Trời Đà Lạt vào thu khá lạnh. Những cơn mưa
giam chặt mọi người trong nhà. Hiếm hoi lắm người ta mới gặp một bữa trời
trong. Cha Độ đang đi xem lại các hàng ghế trong giáo đường, e có cái nào hư
gãy chăng.
Ai s ử dụng cây Harmonica (phong
cầm) vào những buổi lễ vậy, thưa Cha?
- Thường
thì hai anh em của Lộc ở gần đây con. Nhưng thỉnh thoảng Diễm Hương đến thì
chúng mời Diễm Hương sử dụng. Con cũng biết đàn à?
- Thưa
Cha, con có học piano với mẹ con từ năm lên sáu và thường theo mẹ con tấu thánh
ca cho nhà thờ.
- Xong
công trường này con nên trở về thăm mẹ con.
- Vâng,
con cũng đã dự định như vậy, thưa Cha.
- Đâu,
con đánh bài Người yêu của Thành Tâm cho Cha nghe đi.
- Vâng,
thưa Cha.
Vũ ngồi vào dàn phím, dùng chân đạp vào pédal
ép hơi bên dưới.
ĐK :
Người yêu của tôi đâu
Tuyết đông qua rồi
Mùa xuân đang tới,
Đến mau người hỡi
Chim hót líu lo kìa
Người đang ở đâu
Người đang ngồi đó với ánh mắt
Vương sầu nhớ cất tiếng hát đêm
Từng đêm nghe cô đơn. Ôi ! buồn thêm.
ĐK :
Người đang ngồi đó nói với khách
Câu tình tứ, uống với khách ly rượu cay,
Trong cơn say ôi buồn thay!
ĐK :
Người em nhỏ bé bước thấp thoáng
nơi đầu ngỏ, cất tiếng nói rao hàng
đây, nhưng không nghe ai gọi mua.
Khi chàng đứng dậy khỏi cây đàn. Vũ hỏi:
- Thưa
Cha, con và Diễm Hương yêu nhau thắm thiết như vậy rồi chúng con có vào “Thiên
quốc” được không Cha?
- Các
con hãy khuyến khích nhau tu phép tĩnh tâm thường xuyên trong đời sống, và ngày
nào đó tình yêu của các con sẽ tan hòa vào tình yêu với mọi người. Ở “Thiên
quốc” mọi cái riêng rẻ đều vắng bóng, con ạ.
Thành Tâm đã diễn tả ý đó bằng cách nói rằng
người yêu của mình là mọi người, từ người kỹ nữ mua vui cho khách, người ca sĩ
phòng trà, em bé bán hàng rong... Nhưng người ta sẽ không thực hiện nỗi điều
này nếu không thuần thục sự tĩnh tâm. Chỉ có sự tĩnh tâm sâu thẳm mới giúp cho
người đó chan hòa tình yêu với tất cả mọi người.
- Thưa
Cha, còn như Chúa nói “ta sống trong Cha” nghĩa là sao?
- Cha
là Thiên Chúa, tức là tâm. “Ta sống trong Cha” tức là sống trọn vẹn trong nội
tâm yên tĩnh. Người nào sống thuần thục trong tâm yên tĩnh, đó là người “sống
trong Cha”.
- Thưa
Cha, có một số triết gia chống lại đạo đức, cho rằng đạo đức là hèn yếu, nhu
nhược. Như Calliclès cho rằng đạo đức là phát minh của kẻ yếu để vô hiệu hóa
quyền lực của kẻ mạnh. Hoặc như Nietzche, cho rằng đạo đức nhường nhịn, chịu
đựng, hy sinh là sự tự vệ của những người tay chân què quặt, giống như đàn bà.
Theo Nietzche, con người còn phải vươn lên để sống hùng mạnh, để chiến đấu, để
gây chiến, giành giựt, để là siêu nhân. Nietzche kêu gọi bất bình đẳng vì con
người vốn bất bình đẳng, và trong cái bất bình đẳng ấy siêu nhân sẽ xuất hiện.
Ở đây Cha nghỉ thế nào?
- Chưa
nói gì nhiều, chỉ cái chết trong điên loạn của Nietzche đã chứng tỏ sự sai lầm
tột độ của ông ta. Đạo đức phát sinh từ những người khước từ quyền lực chứ
không phải từ những người thiếu thốn quyền lực.
Khi mọi người kính phục Chúa và muốn tôn ngài
lên là vua. Chúa liền lui ở một mình trên núi (John 6:12)
Giáo chủ đạo Phật là Thích Ca vốn là một Thái
tử từ chối ngôi vua để đi tìm chân lý. Hơn nữa, Nietzche chỉ nhìn thấy cái mạnh
bạo ở bề nổi mà không nhìn thấy cái mạnh ở bề sau. Khi bị xúc phạm, chúng ta
nổi cơn thịnh nộ, chống trả. Cái mạnh bạo bề ngoài kiểu thú vật đó thì ai làm
cũng được. Còn người giữ được tâm bình thản, tha thứ khi bị xúc phạm thì ít ai
làm nổi. Nietzche ca ngợi cái sức mạnh của thú vật, còn đạo đức ca ngợi cái sức
mạnh của con người. Cái mạnh của thú vật là cái mạnh của bản năng. Còn cái mạnh
của con người là cái mạnh của trí năng. Chỉ có trí năng mới đem đến cho con
người sự bình an điềm tĩnh.
Một thân thể mạnh là một thân thể cử động được
nhiều. Nhưng một bộ óc mạnh là một bộ óc ức chế được nhiều. Những người bị hội
chứng suy nhược thần kinh là những người không ức chế được não bộ đi vào yên
tĩnh, nó căng thẳng cử động mãi. Ngược lại, não bộ mạnh là não bộ có khả năng
ức chế bất kỳ lúc nào mình muốn.
Cái hùng mạnh sôi sục để thấy bên ngoài lại
chính là cái yếu đuối hư rỗng ở bên trong. Còn sự ôn hòa, thanh thản chính là
cái dấu hiệu của một sức mạnh vô hạn ở bên trong.
Nietzche ca ngợi sự chiến thắng mọi người,
nhưng những người khôn ngoan trầm tĩnh nhất thì ca ngợi sự chiến thắng chính
mình.
Khi Nietzche ca ngợi cái hùng mạnh bên ngoài,
điều đó chứng tỏ ở bên trong của ông ta đã suy sụp mục nát, và cuối cùng cơn
điên loạn xuất hiện.
Chúng ta đồng ý rằng con người sinh ra vốn
không bình đẳng về mọi mặt. Nhưng nếu vì thế mà chúng ta ca ngợi sự bất bình
đẳng, duy trì sự bất bình đẳng thì có khác gì con thú duy trì sự hoang dã của
nó cho đến ngày nay! Con người vượt hơn con vật vì biết uốn nắn những hiện
tượng tự nhiên sai lầm cho nó trở thành tốt đẹp hoàn chỉnh hơn. Người ta xây
cột thu lôi chống lại sét, đắp lại bờ đê chống lụt, nung đất làm gạch cất nhà,
rèn luyện kim loại chế tạo dụng cụ. Cái tự nhiên cần phải được uốn nắn mãi mãi.
Cũng vậy, cái bất bình đẳng tự nhiên giữa xã hội cần phải điều chỉnh mãi mãi để
cuộc đời tốt đẹp hơn.
Siêu nhân không phải là người chà đạp mọi
người để vươn lên mà chính là người phụng sự nhiều nhất cho mọi người.
Chính cái triết lý điên cuồng của Nietzche đã
đưa đến sự tôn sùng Hitler như một siêu nhân mà mọi người (bị ảnh hưởng Nietzche)
mong đợi. Hậu quả của nó là cả Âu Châu bị tàn phá tan thương! Những triết gia
vô trách nhiệm không thấy được hậu quả nguy hiểm phía sau lời nói của mình. Họ
nói cho thỏa thích. Họ tìm sự nổi bật bằng cách nói khác với người xưa. Họ cảm
thấy nhục nhã khi phải lập lại lời của người đi trước. Họ phản ứng lại mặc cảm
hậu sinh của mình bằng cách đập phá những công trình của tiên nhân, và trên
đống hoang tàn đó họ nhảy múa như điên dại. Dĩ nhiên không phải mọi lời nói của
cổ nhân đều đúng, nhưng cũng không phải mọi lời nói của người nay đều đúng.
Điều đúng là trước hết chúng ta kiểm soát được niệm khát khao nổi bật của mình.
Khi không còn khát khao nổi bật, chúng ta mới bình tĩnh phán xét sự đúng sai
của người xưa và sự quá trớn của người nay- trong
đó có chính mình.
Cha Độ đóng cửa giáo đường và đưa Vũ đi về
gian nhà của Cha.
- Thưa
Cha, lúc này con thường đi dạo quanh bờ hồ Leva mỗi đêm, đến khoảng chín giờ
rưỡi con mới vào nghỉ. Con thấy vừa đi dạo vừa tĩnh tâm rất tốt, Cha ạ.
- Cha
cũng vậy đó, con ạ. Bây giờ thì Cha thuần thục sự tĩnh tâm trong mọi giờ phút,
kể cả trong khi làm việc, nói chuyện và làm lễ. Lúc trước Cha thường thấy dễ
chịu được tĩnh tâm khi cầu nguyện, khi đi dạo, khi ngồi yên một mình.
- Thưa
Cha, Chúa nói: “Kẻ nào ăn thịt ta, uống máu ta sẽ được sự sống đời đời”, là thế
nào? Máu và thịt là sự sống của tất cả mọi người. Máu và thịt của Chúa tức là
sự sống của Chúa. Trong Phúc Âm Giăng 6:71, Chúa nói:
“Những lời ta nói với các ngươi về máu và
thịt, tức là tinh thần và sự sống”
Và Chúa nói :
“Người nào ăn thịt và uống máu ta thì ở trong ta, và ta ở trong người đó?”
Bây giờ Cha hỏi con sự sống của Chúa là gì?
- Thưa
Cha, phải chăng sự sống của Chúa chính là nội tâm yên tĩnh?
- Con
nói gần đúng.
- Thế
nào mới là đúng hoàn toàn, thưa Cha?
- Con
phải nói rằng sự sống của Chúa chính là nội tâm yên tĩnh TUYỆT ĐỐI. Chúa đã trở
thành TUYỆT ĐỐI bởi vì nội tâm của người yên tĩnh TUYỆT ĐỐI. Và người nào ăn
thịt uống máu Chúa tức là người sống được với sự tĩnh tâm giống như Chúa. Người
đạt được sự tĩnh tâm TUYỆT ĐỐI tức là người chối bỏ mình trọn vẹn. Và lúc đó
thì họ sống trong Chúa và Chúa sống trong họ.
`
– Thưa Cha, tuần rồi con ở chơi
với em con nên không đến Cha.
- Các
em con vẫn khỏe, hở Vũ?
- Thưa
Cha, Diễm Châu hơi ốm. Có lẽ lát chiều con sẽ đến thăm Châu đã khỏe chưa.
- Diễm
Châu giống chị nó như đúc, cả tính tình lẫn dung mạo. Châu cũng có chiều sâu
suy nghĩ lắm đấy, con.
- Thưa
Cha, tuần rồi con và Hương sang mua hoa hồng ở chùa Quan Âm gần nhà Hương,
chúng con gặp vị thầy trụ trì tên là Phước Tịnh. Thấy thầy có vẻ hiền lành dễ
thương, con có tò mò hỏi về vài điều giáo lý của đạo Phật. Sao con nghe thầy đó
nói na ná giống Cha quá. Cũng cái gì Thiền Định, nhất tâm nghe hơi lạ lạ, nhưng
ý nghĩa cũng gần với Cha lắm.
- Thì
Cha có nói Cha độc quyền giữ chân lý đâu con. Và chân lý không bao giờ là độc
quyền của bất cứ một số người nào. Chân lý không có nhãn hiệu, không có hình
thức, không có độc tôn, không có bắt buộc. Nó hiện hữu nơi những người nào có
được tình thương người mênh mông, có nội tâm yên tĩnh sâu thẳm. Chúng ta thích
lập ra những nhãn hiệu để gói chân lý đem bán lấy lời và sống nhởn nhơ ttrên sự
cực khổ của người khác. Những người mua vì mê nhãn hiệu nên đã mua lầm đồ giả,
con ạ.
Con ng ười đã đau khổ quá nhiều
vì chia rẻ, mà sự chia rẻ đó bắt nguồn từ nhãn hiệu và hình thức. Ai cũng cho
chỉ có nhãn hiệu của mình mới là đồ tốt và chê bai mọi nhãn hiệu khác. Trò đó
lỗi thời quá rồi!
Cha Độ bắt chước giọng Chúa Jésus:
- Này
cô gái, đã đến lúc không phải tìm chân lý trong nhãn hiệu hay trong hình thức,
mà phải tìm chân lý trong sự tĩnh tâm và nhân ái. Vì chân lý chính là tĩnh tâm
và nhân ái.
Vũ cười:
- Cha
làm giống Chúa quá!
- Cha
mơ ước ngày nào thế giới này nói chung một ngôn ngữ, sống chung một tình
thương, hướng chung một sự tĩnh tâm tuyệt đối.
Yên lặng một chút, Vũ hỏi:
- Thưa
Cha, như Cha nói công thì thưởng, tội thì phạt, vậy ai đứng ra làm trung gian
để xét đoán và thưởng phạt cho tất cả mọi người?
- Nếu
con trả lời cho Cha ai làm cho nước sôi ở 1000C và đông đặc ở 00C thì Cha sẽ
trả lời cho con người xét đoán thiện ác của loài người.
Vũ trầm ngâm giây lâu rồi nói:
- Như
vậy có nghĩa là không có ai xét đoán mà chỉ là một định luật khách quan công
bằng giống hệt như luật Nhân Quả của đạo Phật, thưa Cha?
- Con
khoan kết luận như vậy. Bây giờ con thử hình dung một đấng mà có thể cùng một
lúc biết rõ mọi ý nghĩ và hành vi của tất cả mọi loài trong vũ trụ. Đấng đó sẽ
có hình dáng ra sao. Vũ đăm chiêu lúc lâu:
- Trừu
tượng quá, Cha ạ. Nếu cho đấng đó có một hình dáng giới hạn thì không thích
hợp. Mà cho đấng đó như hư vô bao phủ hết tất cả thì khó chấp nhận quá.
- Bây
giờ Cha gợi ý dần dần cho con, nhé! Trước hết đấng đó phải trở thành vạn hữu,
tan hòa trong vạn hữu. Con đồng ý không?
- Con
đồng ý, thưa Cha.
- Nhưng
đấng đó không bị chia cách như vạn hữu mà vẫn là duy nhất. Con đồng ý.
- Vâng,
con đồng ý, thưa Cha.
- Vừa
hòa tan trong vạn hữu, vừa giữ nguyên tính chất duy nhất của mình, con gọi đấng
đó là gì?
- Thưa
Cha, Chúa Jésus định nghĩa đấng đó là tinh thần, là chân lý. Hai tính chất này
phải được hiểu ra sao, thưa Cha?
- Con
có đọc Spinoza chưa?
- Thưa,
có.
- Con
nói về Thượng Đế của Spinoza cho Cha nghe xem.
- Thưa
Cha, Spinoza phủ nhận thượng đế như là một nhân vật có hình dáng, mà thượng đế
phải là bản thể của vạn hữu, là thế giới của định luật. Các định luật của vật
lý như luật hấp dẫn Newton, luật sức đẩy của Archimède, luật bảo toàn động
lượng, luật tương đối Einstein... đều ở trong bản thể đó. Ở đây Cha nghĩ thế
nào, thưa Cha?
- Spinoza
lệch qua một cực đoan rồi, con ạ. Chúa Jésus định nghĩa Thiên Chúa trên hai
khía cạnh: Tinh thần và chân lý. Còn Spinoza chỉ giữ lấy khía cạnh chân lý mà
quên đi khía cạnh tinh thần. Cái bản thể thượng đế của Spinoza là một bản thể
khô khan vô tri vô giác. Còn Thiên Chúa của Chúa Jésus, ngoài tính chân lý của
Spinoza, còn có thêm tinh thần- hiểu biết,
yêu thương, linh hoạt. Đấng xét xử đó, vừa hòa tan trong vạn hữu, vừa giữ
nguyên tính duy nhất của mình, vừa là những định luật khách quan, cũng vừa là
hiểu biết, thương yêu linh hoạt.
Con đường đi đến đấng đó chính là phép tĩnh
tâm.
- Hồi
con mới đến, con nghe Cha giảng, con thấy Cha chấp nhận Chúa Jésus mà có vẻ bỏ
qua Đức Chúa Trời. Con nghĩ Cha muốn lập một Thiên Chúa giáo không có Thượng
Đế, một Thiên Chúa giáo vô thần. Bây giờ con mới hiểu thêm, Thương Đế của Cha
không ngây thơ như mọi người vẫn hiểu, và dường như những tinh yếu của Đấng
Kitô Jésus đều trút cả vào tâm Cha.
Thưa Cha, luật Nhân Quả và tính chất thưởng
thiện phạt ác có khác nhau không, thưa Cha?
- Con
nói thêm về luật Nhân Quả cho Cha nghe.
- Thưa
Cha, con không có tài liệu để nghiên cứu kỹ về luật Nhân Quả, chỉ nghe bà
Trường nói sơ qua một lần là luật đó như một tấm gương trong, ai rọi ánh sáng
màu gì nó sẽ hắt trả lại ánh sáng màu đó. Ai đem đến cho mọi người niềm vui,
đời họ cũng sẽ được niềm vui. Ai đem đến cho mọi người đau khổ, đời họ sẽ chịu
đau khổ.
- Như
vậy nó tương tự con ạ. Như Chúa nói:
“Nếu các ngươi biết tha thứ cho người thì
Cha các ngươi ở trên trời cũng sẽ tha thứ các
ngươi”
Hoặc:
“Các ngươi muốn được đối xử thế nào hãy đối
xử với mọi người như vậy”
Hoặc:
“Các ngươi đừng phê phán ai để mình khỏi bị
phê phán... Các ngươi cân lường cho người thế nào, họ sẽ cân lường trở lại cho
ngươi như vậy” “Hãy thương yêu để được yêu thương
Hãy ban cho để được nhận lãnh”
T ấm gương phản chiếu thiện ác đó
và Đấng xét xử chỉ là một.
Khi dùng ví dụ tấm gương, chúng ta hãy hiểu ở
khía cạnh chân lý, khi dùng chữ Đấng xét xử, ta hãy hiểu ở khía cạnh tinh thần.
Cả hai khía cạnh đó, chân lý và tinh thần, hợp
lại mới được gọi là tuyệt đối.
Chính vì khía cạnh chân lý khách quan mà Chúa
nói:
“Chẳng phải những kẻ nói cùng ta rằng lạy
Chúa, lạy Chúa, thì đều được vào nước Thiên đàng. Nhưng chỉ những kẻ nào làm
theo ý muốn của Cha ta ở trên trời mà thôi”. Tức là những người nào gieo nhân
mới được gặt quả chứ không phải bởi sự cầu xin.
Con còn nhớ bài thơ của Nhất Tuấn được phổ
nhạc không?
- Thưa
Cha, con còn nhớ.
- Hãy
hát lại cho Cha nghe.
- Vâng,
thưa Cha.
“Con quỳ lạy Chúa trên trời
Sao cho con lấy được người con yêu
Đời con đau khổ đã nhiều
Từ khi thơ dại đủ điều đắng cay
Số nghèo hai chục năm nay
Xây bao nhiêu mộng trắng tay vẫn nghèo
Chúa ơi ! Chúa ơi !
Con quỳ lạy Chúa trên trời
Sao cho con lấy được người con thương
Bây giờ con đã gặp nàng
Không giàu, không đẹp, không màng lợi danh
Chúng con hai mái đầu xanh
Chấp tay khấn nguyện trung thành với nhau
Thề rằng sóng gió biển dâu
Đã yêu trước cũng như sau giữ lời
Người ta lại bỏ con rồi, Chúa ơi !..”.
- Con
cảm thấy gì trong bài thơ đó ?
- Thưa
Cha, con cảm thấy không có sự can thiệp của Chúa trước những lời cầu xin bi
thiết đó.
- Đúng
vậy, con ạ. Người cầu xin là người không hiểu Chúa. Họ thấy được khía cạnh tinh
thần của Chúa mà không thấy được khía cạnh chân lý của Chúa. Nơi khía cạnh tinh
thần Chúa có nghe, có thấy, có thương yêu. Nhưng nơi khía cạnh chân lý, Chúa
phải giữ sự công bằng bởi vì chỉ những người đã ban phát hạnh phúc mới có thể
được nhận lãnh hạnh phúc. Hạnh phúc không bao giờ đến với người vị kỷ mà chỉ
đến với những người hết lòng mang niềm vui đến cho mọi người.
- Con
gần lãnh lương chưa?
- Thưa
Cha, ngày mai con lãnh lương.
- Lần
sau con mua ít vải đem đến. Cha thấy mấy đứa bé nhà ông bà Trung mặc quần áo
chấp vá, Cha xót xa quá.
- Vâng,
thưa Cha.
Di ễm Hương hỏi các em:
- Tụi
cưng chia bớt mấy bộ đồ để chị đem đến Cha Độ để Cha cho người nghèo, chịu hôn?
Ba đứa bé mừng reo:
- Chịu
liền!
Rồi chúng chạy vào tủ soạn mỗi đứa vài bộ đồ
đem ra. Diễm Hương gói lại cẩn thận. Nàng cũng đã mua một số vải mới.
Thái Vũ bước vào hỏi:
- Ba,
mẹ đâu rồi, Hương?
- Khánh
mời ba mẹ và tụi em đến nhà ăn tiệc, nhưng em nói em có hẹn đến Cha nên ba mẹ
đi một mình. Mấy đứa nhỏ cũng không chịu đi.
Ba đứa nhỏ reo lên:
- A!
anh Vũ.
Rồi chạy tới kéo tay Vũ vào. Vũ đưa hai tay
cho Duy và Dương đeo tòng teng hai bên và đi vào. Duy Dương lại đấm đá cho Vũ
xem để nhờ Vũ chỉ tiếp. Vũ hỏi Diễm Châu:
- Em
khỏe hẳn chưa?
- Em
khỏe hẳn rồi, anh ạ! Mỗi lần luyện khí công xong em thấy bệnh giảm rất nhiều.
- Nghỉ
được ngày Sabbath chưa?
- Dạ,
hơi hơi. Cũng còn suy nghĩ ít ít anh ạ.
- Diễm
Hương đi chợ mua giùm anh ít vải, anh có mang tiền ra nè.
- Khỏi,
anh- Diễm Hương đáp- Em có mua rồi. Tiền của anh để họ trả tiền công
thợ may. Quay sang các em Diễm Hương hỏi:
- Tụi
cưng vòi vĩnh anh Vũ xong đi, để anh với chị đi.
Duy nói:
- Anh
Vũ bay đá song phi cho em xem đi.
Vũ cười, chìu Duy. Chàng tung người lên quét
một đá thành một vòng tròn trên cao rồi rơi xuống thụp người sát đất đánh thốc
lên. Chàng lại tung người lên đá bật hai chân dang hai phía khác nhau. Chàng
lại tung người lên lộn một vòng trên cao.
- Chịu
chưa? Vũ hỏi.
Dương thích quá:
- Anh
chỉ em bay với.
Vũ bồng Dương lên rồi nhảy lên gần đụng trần
nhà và rơi xuống.
Dương vừa sợ vừa thích kêu vang ầm ĩ.
- Tụi
cưng trông nhà, anh với chị đi nhé!
- Dạ!
k
Cha Độ đưa Thái Vũ và Diễm Hương
đi vào làng. Họ cầm theo vải và quần áo. Đến một căn nhà, Cha gọi:
- Có
ông bà Trung ở nhà không?
Nghe tiếng Cha, cả nhà chạy ra:
- Cha!
Cha! Mời Cha vào nhà ạ. Mời hai anh chị vào nhà ạ.
Rõ ràng là một căn nhà nghèo vì đồ đạc sơ sài,
bàn ghế đơn giản. Họ rót nước mời khách. Dường như họ không phải là tín đồ
Thiên Chúa vì không có tượng ảnh.
Hai ông bà Trung đứng gần Cha có vẻ kính cẩn.
Cha hỏi:
- Việc
rẫy nương các con thế nào rồi?
- Thưa
Cha, cũng vẫn bình thường ạ.
- Các
con có phát triển thêm được điều gì không?
- Thưa
cha, chưa ạ.
- Cha
có mang đến cho các con ít quần áo cũ và vải. Con may cho các cháu mặc nhé! Cha
bảo Diễm Hương bày ra, và nói với chủ nhà:
- Còn
tiền này con trả tiền công cho thợ may. Bánh kẹo cho mấy đứa nhỏ đây.
Ông bà Trung ứa nước mắt không nói được lời
nào. Bà Trung bước tới soạn các thứ ra xem rồi nói:
- Xin
Cha cho phép con chia bớt với ông bà Đằng bên cạnh, vì họ cũng thiếu thốn, Cha
ạ!
- Thế
hở, con. Tốt lắm, trong cái ít ỏi mà các con vẫn nghĩ đến việc san sẻ cho người
khác thì Cha rất vui.
Ông Trung nói:
- Từ
lâu con muốn theo đạo, hôm nào Cha cho các con làm lễ rửa tội. Cả gia đình con.
Cha Độ cười xòa:
- Khi
con san sẻ được cho người bên cạnh thì các con đã rửa tội và trở thành con
chiên của Chúa rồi. Đừng bày vẻ rườm rà, con ạ. Điều quan trọng là con ráng dạy
cho mấy đứa nhỏ hiền lành, thương người, biết nhường nhịn, biết san sẻ từng
chút. Cuộc đời chúng sẽ được sung sướng nếu từ bây giờ chúng thấm nhuần đạo
đức. Mấy đứa đâu, lại Cha xem.
Ông bà Trung gọi các con mình đang đứng lấp ló
sau cánh cửa ra. Khoảng ba đứa trạc tuổi của Diễm Châu và Duy. Quần áo chúng có
nhiều mảnh vá. Chúng đến chào Cha, chào Hương và Vũ rồi khoanh tay đứng yên.
Cha vuốt tóc chúng và hỏi han từng đứa về việc học hành, bạn bè, trò chơi, làm
lụng.
Vũ vẫn phục Cha những khi thấy Cha sống với
trẻ thơ. Cha quên mất mình, hoàn toàn hòa tan hẳn vào thế giới của trẻ thơ với
bao nhiêu chuyện vặt vãnh nhỏ nhặt. Những đứa bé cũng quên Cha là ông già có
râu bạc, cảm thấy Cha gần gũi thân mật không một chút gì ngăn cách. Cha hôn lên
trán chúng rồi từ giả ra về. Ông bà Trung ứa nước mắt nhìn theo. Ba đứa nhỏ
nói:
- Chủ
nhật Cha cho con đi lễ với.
Cha cười:
- Ừ,
Cha cho.
Ông bà Trung chào Vũ và Diễm Hương rồi hỏi:
- Anh
chị được mấy cháu rồi, ạ?
Diễm Hương mắc cở đỏ mặt. Vũ đáp:
- Tụi
em chưa có con, anh chị ạ.
Ông Trung góp ý:
- Anh
chị nên kế hoạch, đừng đông con, cực lắm.
- Vâng,
cám ơn anh.
Về đến nhà, Diễm Hương soạn bánh mời Cha, và
soạn các thức ăn đem vào trong. Vũ ngồi xuống bên chân Cha. Diễm Hương nói ra:
- Anh
muốn hỏi Cha điều gì phải chờ em, hổng được ăn gian nghe một mình, à!
Vũ ngồi yên lặng bên chân Cha, tay chàng mân
mê gấu quần của Cha. Diễm Hương sắp xếp mọi thứ xong trở ra ngồi xuống một bên
chân Cha, nhìn Vũ:
- Anh
hỏi gì thì hỏi, em nghe với.
Vũ nói:
- Con
thấy Cha như là một mạch nước minh triết không bao giờ vơi cạn.
Cha Độ bảo:
- Bởi
vì Cha không giữ một hạt bụi nào trong tâm của mình, con ạ. Người nào chất chứa
nhiều trong tâm, mạch nước minh triết sẽ tắt mất.
- Thưa
Cha, với nguồn minh triết sáng láng như vậy, tại sao Cha không rao giảng rộng
rãi cho mọi người mà chỉ giam mình nơi xóm làng hiu quạnh nhỏ bé này?
- Thì
sau này ai được lợi ích từ nơi con cũng tức là được lợi ích từ nơi Cha. Đâu có
mất mát gì con. Vũ chợt nhớ tới lời Chúa:
“Ai tin ta là tin Cha, ai tin Cha là tin ta,
vì ta và Cha là một”
- Thưa
Cha, Chúa Jésus có nói “Ta và Cha là một” phải hiểu ý này như thế nào ạ?
- Thì
Cha vừa nói với con đấy. Sau này ai được lợi ích bởi con cũng chính là được lợi
ích bởi Cha. Vì sự sống của con giống hệt sự sống của Cha. Có nhiều người bên
phái Thiên Chúa Nhất tính, nghe câu “Ta và Cha là một” rồi kết luận Chúa Jésus
cũng là Đức Chúa trời.
Một học giả Hồi giáo phê bình :
“Nếu bảo Chúa Kitô cũng là Đức Chúa Trời thì
không lẽ Đức Chúa Trời đã bị bạt tai, nhổ nước bọt, chửi mắng, đóng đinh và
chết trong ba ngày, để cho ba ngày ấy vũ trụ không có ai làm chủ sao?” Chữ Một ở đây phải hiểu rằng Một trong nội
tâm yên tĩnh tuyệt đối, Một trong sự chối bỏ chính mình, Một trong sự hòa tan
với vạn hữu, Một trong sự giữ nguyên cái duy nhất, Một trong các định luật, và
Một trong hiểu biết thương yêu. Chứ không phải Một là một nhân vật.
- Thưa
Cha, nghĩa là Chúa Kitô đạt được mọi tính chất của Thượng Đế?
- Chẳng
riêng vì Chúa Kitô mà bất cứ ai giữ được nội tâm yên tĩnh tuyệt đối cũng đều
đạt được. Diễm Hương hỏi:
- Nhiều
người đạt được rồi ngai ở đâu đủ cho mọi người ngồi, Cha?
Cha Độ cười, cốc nhẹ trên đầu Diễm Hương:
- Thượng
Đế thì không có ngai. Có ngai thì không phải Thượng Đế.
Vũ hỏi:
- Thưa
Cha, câu nói Thiên Chúa tạo ra tất cả, phải hiểu như thế nào?
- Con
đã biết Thiên Chúa có hai tính chất, tinh thần (hiểu biết, thương yêu) và chân
lý (những định luật khách quan). Chính những định luật khách quan làm cho vũ
trụ sinh hóa, vận chuyển thay đổi, hoại diệt, tái lập, phát triển mãi mãi.
Nhưng sự sinh hóa của vũ trụ còn bị chi phối bởi hành vi thiện ác của mọi loài.
Đâu phải vô cớ mà động đất, ngập lụt, sóng thần, bão tố thổi bất ngờ đâu con.
Khoa học đi tìm nguyên nhân ban đầu của các hiện tượng thiên nhiên không bao
giờ cùng tận. Mỗi một nguyên nhân đều có nguyên nhân phía trước. Không hề có
cái nguyên nhân đầu tiên. Cái nguyên nhân đầu tiên nằm trong lòng mọi người.
Các thiên tai sẽ chấm dứt khi mọi người trở nên thánh thiện.
Diễm Hương nói:
- Thưa
Cha, như vậy Cha quy trách nhiệm cho con người chứ không đổ thừa cho Thượng Đế
về các vấn đề thiên tai, đau khổ.
- Đúng
vậy.
- Cha
làm luật sư bênh vực cho Thượng Đế hay quá.
- Nhưng
Cha là một luật sư công bình chính trực, con ạ, sự thực thế nào, Cha nói thế ấy
chứ không thêm bớt.
Vũ hỏi:
- Thưa
Cha, sau khi chữa lành bệnh cho người, Chúa thường nói:
“Chính đức tin ngươi đã cứu ngươi”
Ở đây, Cha giải thích thế nào?
Cha Độ đáp:
- Con
hiểu thế nào về năng lực của tinh thần?
- Thưa
Cha, trong Trường sinh học, vấn đề năng lực tinh thần đang được nghiên cứu
nghiêm túc. Chính bản thân con phát huy sức mạnh của nội công trong võ thuật
cũng là một dạng của năng lực tinh thần.
- Khi
nào thì một người có được năng lực tinh thần?
- Thưa
Cha, khi nào họ nhiếp tâm yên tĩnh cực độ.
- Năng
lực tinh thần có hai cách để xuất hiện. Một, do tĩnh tâm. Hai, do niềm tin. Đối
với người không có khả năng tĩnh tâm, nếu họ có một tinh thần mãnh liệt thì
năng lực tinh thần sẽ trổi dậy. Thế nên chính niềm tin mãnh liệt của họ đối với
Chúa, tin không nghi ngờ rằng Chúa sẽ chữa lành bệnh, lập tức họ hết bệnh.
Chính năng lực tinh thần của họ đã bộc phát để chữa cho họ. Thêm một ý nghĩa
nữa là lòng kính trọng với Chúa cũng tạo thành một kết quả tốt cho họ.
Nhưng gây cho họ một niềm tin thì dễ đi dần
vào mê tín. Làm sao gây cho họ được khả năng tĩnh tâm thì họ trở nên tự chủ ít
ỷ lại hơn. Riêng vấn đề kính trọng Chúa thì Cha còn nói như sau. Trong cuộc
sống này, nếu chúng ta có thể kính trọng một người nào có nhân cách cao cả, tự
nhiên nơi chính chúng ta cũng xuất hiện một nhân cách tốt hơn lúc trước. Đây là
một điều rất có ý nghĩa. Sở dĩ giới trẻ ngày nay dễ sa ngã bởi vì họ không có ai
để đặt niềm tôn kính. Cần phải cho trẻ những vị thánh nào đó để làm chỗ tựa cho
tinh thần của họ.
Vũ hỏi:
- Thưa
Cha, biết ai thật sự là thánh để mình tôn thờ. Không khéo lại bị rơi vào mê
tín!
- Đây
là điểm tế nhị. Vì sợ rơi vào mê tín nên người ta đã gạt luôn những vị thánh
thật sự ra khỏi trần gian. Nhưng không có những vị thánh thì tâm hồn con người
sẽ đổ vỡ. Con hãy tìm hiểu những người trẻ tuổi bị vướng vào ma túy sẽ thấy, họ
không hề có một ai để tôn trọng ngưỡng mộ cả! Vũ trầm ngâm nhớ lại những người
công nhân của công ty. Hầu hết những người nhân cách kém đều không có niềm tin
với ai cả, không có lý tưởng, không có tôn giáo nào cả.
Diễm Hương chợt lên tiếng hỏi:
- Còn
như Phúc âm nói Chúa đuổi quỷ ra khỏi người bệnh, là ý nghĩa gì Cha?
- Tại
mọi người đều tin như vậy nên Chúa cũng thuận theo họ mà giải thích như vậy.
Khi thấy một người mất bình tĩnh, mất nhân cách, người xưa đều cho là quỷ nhập.
Bây giờ thì y khoa xem đó là một loại bệnh tâm thần và soi sáng dưới cái nhìn
khoa học. Chúa đã dùng năng lực tinh thần để chữa bệnh tâm thần cho ho. Còn
hiện tượng ma quỷ nhập thì nên xem xét một cách dè dặt. Các con có nghe hiện
tượng bà Dzuna bên Liên Xô có đôi tay chữa được bệnh hay không?
- Tụi
con có nghe báo chí đăng tải về việc đó.
- Chúa
cũng vậy.
- Như
vậy có ma không, Cha?
- Cả
đời Cha có thấy con ma ra sao đâu, con.
- Sao
ai cũng nói có ma mà chính mắt họ thấy.
- Cha
cũng cho rằng chết không phải là sự chấm dứt mọi sự. Sau cái chết sẽ còn nhiều
vấn đề cần nghiên cứu. Các tôn giáo đều có các lý giải về thế giới siêu hình
theo quan điểm của mình. Tuy nhiên theo Cha, có hai điều chúng ta cần xác định
về điều này. Một là chúng ta nên bận tâm nhiều hơn với thế giới người sống ở
chung quanh mình. Hai là nếu tồn tại những sinh vật trong thế giới siêu hình
thì họ cũng là “con của Chúa”, cũng cần có tình thương yêu như chúng ta vậy.
Đừng nên xem họ là những loài đáng ghê sợ mà xa lánh.
- Thưa
Cha, trường hợp có những người nói là họ được Thần thánh nhập đồng là sao?
- Cha
nghĩ có hai trường hợp. Một là ảo giác mà họ hiểu lầm. Hai là cũng có thể có
tồn tại sự xâm nhập một tác dụng tinh thần từ bên ngoài vào tâm của người khác.
Trường hợp này cũng giống như các nhà thôi miên tác động vào tâm của đối tượng
vậy.
- Nhiều
người tự cho có khả năng tiên tri, chữa bệnh khi được nhập đồng như vậy, thưa
Cha.
- Năng
lực tinh thần rất lớn, có thể làm nên nhiều việc rất bất ngờ. Tuy nhiên điều đó
dễ đưa đến mê tín. Hơn nữa người nào có ý tự hào khoe khoang về năng lực đó thì
nó sẽ không tồn tại lâu.
- Cha
có thể chữa bệnh không, thưa Cha?
- Cha
không có học y khoa, con ạ.
- Không,
con nói về năng lực tinh thần đấy.
- Chữa
bệnh là chức năng củabác sĩ. Còn năng lực tinh thần của Cha là khả năng tĩnh
tâm không giận hờn buồn khổ, rồi đem nó dạy cho mọi người.
–Thiên đường ở đâu, Cha?
- Con
tả Thiên đường cha nghe với!
- Thưa
Cha, Thiên đường đẹp lắm, có vườn cây quanh năm trĩu trái. Có thú vật đùa giởn
với người. Có mây nhiều màu, có ánh sáng cả ngày đêm, có hồ nước trong, có
hương thơm phảng phất, vân vân, cáigì cũng thích lắm.
- Sao
Cha nghe nó giống Địa Cầu nầy quá. Chỉ pha thêm ít màu nước, xịt thêm ít nước
hoa là thành thiên đường rồi.
Vũ và Diễm Hương phì cười.
- Vậy,
Thiên đường ở đâu Cha?
- Thì
như con diễn tả đấy. Ở nhà con có hồ Xuân Hương, có sương vây phủ, ban ngày có
mặt trời, ban đêm có đèn điện, nếu có nuôi chó thì đùa với chó, rồi mỗi ngày
xịt nước hoa lên tóc cho mùi thơm phảng phất. Nghĩa là Thiên Đường con diễn tả
không khác gì trần gian nầy, chỉ khác là tâm con khổ thì nó là trần gian, tâm
con an vui thì nó là thiên đường. Con có nhớ Chúa Jésus định nghĩa nước trời ra
sao không?
- Chúa
định nghĩa sao, Cha?
- Mấy
người Pharisi nghe Chúa nói:
“ Nước trời rất gần
Nước trời rất gần”
Họ hỏi Chúa:
“ Ngài nói nước trời rất gần là chừng nào mới
đến?”
Chúa bảo :
“Ta nói nước trời rất gần nghĩa là không phải
bên nầy, không phải bên kia, mà ở trong chính ngươi!”. (Luca 17:9)
Chúa cũng ví dụ:
“Nước Thiên đường giống như một người lái buôn
kiếm được ngọc châu tốt. Khi đã tìm kiếm được một hạt châu quý giá rồi thì bán
hết gia tài mình mà mua hạt châu đó”.
Hạt châu đó chính là phép tĩnh tâm. Bán hết
gia tài tức là bỏ hết những suy nghĩ tạp nhạp, tham lam, thù hận từ trước để
dồn nỗ lực thực hiện phép tĩnh tâm đó. Nhưng ngoài ý nghĩa nội tại như Cha vừa
nói thì Cha nghĩ thế giới vật chất này không phải là thế giới duy nhất tồn tại
trong vũ trụ.
- Nghĩa
là thật sự có Thiên Đường?
Cha Độ cười:
- Chắc
phải đợi Cha chết rồi mới biết được.
- Anh
Vũ chắc vào nước Trời trước con, vì anh tập khí công từ nhỏ, còn con mới bắt
đầu. Nếu Cha cầm chìa khoá cửa Thiên Đường, Cha đừng cho anh vào, bắt anh đợi
con, Cha nhé!
- Vũ
sẽ đợi con!
`
Ông Tr ường cằn nhằn:
- Hải
lúc này sinh tật uống rượu, tay run run. Hôm nào nó làm vỡ cái máy siêu âm thì
đổ nợ. Vũ hỏi:
- Hải
uống rượu với ai vậy, Bác?
- Không
biết với mấy người bạn nào ở địa phương. Hình như mấy người này là dân có tiền
nên đãi Hải chớ Hải không phải đãi lại.
Vũ quay sang hỏi cô kế toán:
- Cô
tổng kết lương công nhân tháng rồi chưa?
Cô kế toán đáp:
- Gần
xong rồi, anh Vũ ạ!
Vũ hỏi ông Trường:
- Mình
còn nhận tiền hai đợt nữa phải không, Bác?
- Ừ,
sắp tới mình lãnh khoảng năm trăm triệu để chi phí lương công nhân và vật liệu.
Xong công trình này mình lãnh đợt chót một tỷ rưỡi. Cuối công trình này mình
thưởng anh em công nhân thêm một tháng lương.
- Hoan
hô, bác! bác cho cháu mượn xe.
- Vũ
đi đâu vậy?
- Dạ,
con đi lại thăm Cha Độ.
- Lấy
vợ Công giáo thì khổ cái nước phải theo đạo như thế đấy!
Vũ tủm tỉm cười ra đi. Ông Trường gọi giật
lại:
- Này
Vũ, có hai hợp đồng gọi mình, một ở Bảo Lộc, một ở Hóc Môn. Cháu nghiên cứu
xem.
- Thưa
bác, cháu quên nói với bác, xong công trình này cháu phải về thăm nhà ở Vĩnh
Long một thời gian dài. Bảy năm rồi cháu chưa từng về thăm nhà kể từ cái ngày
đặt chân đến nhà bác. Bác nên chọn công trình ở Hóc Môn để dễ kiểm soát.
- Khổ
tôi chưa, Vũ đi rồi bác vất vả lắm. Hải không giỏi như Vũ đâu!
a
- Cha
vừa đi đâu về vậy, thưa Cha?
- Cha
đi thăm thằng bé bị ốm con ạ!
- Nặng
không, Cha?
- Không
đến nỗi, con.
Cha Độ mở cửa cho Vũ đẩy xe vào trong, rồi Cha
mới vào cởi áo manteau ra treo lên vách. Hai người lại ngồi bên nhau.
- Thưa
Cha, Chúa Kitô có tiết lộ rằng:
“ Trước khi có Abraham đã có ta”
Điều này phải hiểu như thế nào?
- Thì
có nghĩa là Chúa đã có mặt từ rất xưa.
- Lúc
đó Chúa đã đạt đến tuyệt đối như Thượng Đế chưa, thưa Cha?
- Thánh
kinh có nói đâu mà Cha biết.
- Thưa
Cha, có phải sự sống con người bắt đầu từ lúc ở trong thai mẹ cho đến lúc chết
là hết.
- Con
mắt ai cũng thấy như vậy, con ạ! Cũng như con mắt ai cũng thấy mặt trời xung
quanh trái đất. Phải đợi đến thiên tài Copernic mới lật ngược lại trái đất xoay
quanh mặt trời.
Hiện tượng đời sống cũng vậy, phải đợi một
Copernic để soi thủng sự hạn hữu của nó.
- Theo
Cha thì phải như thế nào ạ!
- Theo
Cha thì sự sống của con người là vô tận, còn sinh ra và chết đi chỉ là một giai
đoạn nhỏ bé mà thôi. Con có nhớ đoạn Nicodemm hỏi Chúa:
“Làm sao người già lại vào bụng mẹ để sanh trở
lại được?”
Chúa bảo:
“ Chớ lấy làm lạ về điều ta nói. Các ngươi
phải sanh trở lại, gió muốn thổi đi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng gió động
nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và sẽ đi về đâu. Còn ta nói điều mình biết và
những điều mình thấy. Còn các ngươi chẳng hề nhận lấy lời chứng của ta. Ví bằng
ta nói các việc thuộc về đất (cụ thể) các ngươi còn chẳng tin thay, huống chi
ta nói các việc thuộc về trời (trừu tượng), thì các ngươi tin sao được” (Jean
3:4)
Chúa bảo chúng ta chỉ nghe gió thổi mà chẳng
biết gió từ đâu đến và sẽ đi về đâu. Nghĩa là chúng ta chỉ thấy sự sống ngắn
ngủi hiện tại mà không biết sự sống ấy từ đâu đến và sẽ đi về đâu. Những bí mật
của sự sống VÔ TẬN này quá trừu tượng nên Chúa than khó có người tin nỗi. Chúa
cũng muốn làm một Copernic để soi thủng cái đời sống hữu hạn của con người vạch
ra cho mọi người thấy nó như thế nào, nhưng Ngài cũng biết nó quá trừu tượng
ngoài khả năng tư duy của con người Do Thái thời đó.
Con có học về lý thuyết siêu cầu, siêu phẳng
trong toán học chưa?
- Thưa
Cha, chưa, vì chương trình đó thuộc đại học. Con nghỉ học từ lớp 12.
- Lý
thuyết về siêu cầu, siêu phẳng không còn nằm trong phạm vi các giác quan nữa,
ngay cả trí tưởng tượng phong phú nhất cũng không hình dung được. Dòng sống của
con người cũng vậy. Người nào vội vàng kết luận dòng sống bắt đầu từ thai mẹ,
chấm dứt vào lúc chết, e vấp phải cái lỗi quá vội vàng.
- Thưa
Cha, như Thánh kinh nói, sau khi chết, hoặc họ được lên thiên đường, hoặc họ bị
xuống hỏa ngục, là thế nào?
- Nếu
chấp nhận sự sống còn tiếp tục sau khi chết thì bắt buộc phải chấp nhận sự sống
đã có mặt trước khi có ở thai mẹ!
Còn Thiên đường tượng trưng cho một cuộc sống
vui và hỏa ngục tượng trưng cho một cuộc sống khổ.
Con cũng thấy nhiều người có mặt trên cuộc đời
này khổ sở vất vả như trâu như ngựa. Đó là địa ngục, còn nhiều người đã sung
sướng giàu có thỏa mãn từ khi mới sinh ra. Đó là Thiên Đường. Tuy nhiên Cha
cũng tin rằng thế giới vật lý không phải là thuộc tính duy nhất của vũ trụ. Còn
nhiều điều mà khoa học chưa biết hết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét